Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Ngọc Khuê (hoặc Nguyễn Xuân Khuê hay Nguyễn Xuân Hạnh tùy theo nơi ghi), sinh ngày 8/3/1864 tại thị trấn Ba Tri (Bến Tre). Bà là con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và được sinh ra vào thời kỳ ông về Bến Tre nương mình “cho tròn phận tóc da” trong những ngày chạy giặc. Lớn lên giữa cảnh nhân dân cả nước đang rên xiết dưới ách đô hộ thực dân; một bên là người cha trí thức Nho học, giàu khí tiết, suốt cuộc đời đấu tranh bằng ngòi bút vì nhân đạo, vì tự do và một bên là người mẹ hiền lương thục đức, Nguyệt Anh sớm thừa hưởng được ý chí của cha và tài đức của mẹ, sở hữu bản lĩnh và trí tuệ hơn người nên bà luôn luôn nuôi khát khao tạo nên “sự nghiệp” của riêng mình, không thua kém đấng nam nhi.
Sương Nguyệt Anh là người phụ nữ sinh ra ở thời buổi loạn lạc, khủng hoảng. Không gì đáng sợ hơn việc những giá trị, quan niệm được giữ gìn và coi là chuẩn mực nay bị thời gian dần dần bài trừ. Và những con người vốn coi những giá trị đó là nhân sinh quan bỗng trở nên lạc hướng như con thuyền không thể tìm thấy ngọn hải đăng vào đêm giông bão. Cụ Đồ Chiểu là Nho sĩ như thế. Không biết gửi gắm nỗi lòng mình vào đâu, cụ đem suy nghĩ, tâm tư của mình gửi vào những vần thơ và đem sở học cả đời truyền cho những người con của cụ. Thuở nhỏ, Nguyệt Anh cùng chị bà là Nguyễn Thị Xuyến được cha chỉ dạy tận tình nên thông thạo cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Cả hai nổi tiếng vừa có tài lại vừa có sắc, nên được mọi người xung quanh ca tụng gọi là Nhị Kiều. Nhờ được thân phụ là cụ Đồ Chiểu truyền dạy nghề y và Nho học từ nhỏ, Nguyệt Anh đã tích cực hoạt động trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, đề cao địa vị người phụ nữ trước sự biến đổi ngày càng rõ nét của xã hội thời Nguyễn mạt.
Năm 1888, Sương Nguyệt Anh 24 tuổi thì cha mất. Tri phủ Ba Tường đã đến ngỏ lời hỏi bà làm vợ nhưng không được bà chấp nhận nên mang lòng oán hận, tìm cách hãm hại bà… Để tránh tai hoạ, bà cùng gia đình của anh mình là Nguyễn Đình Chúc chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi sau đó lại dời về Rạch Miễu để ở nhờ nhà một ông nghè tên Trương Văn Mân. Ở đây, bà đã kết hôn với một phó tổng ở địa phương sở tại đang goá vợ tên là Nguyễn Công Tính. Hai người có với nhau một người con gái tên Nguyễn Thị Vinh. Đáng tiếc tơ duyên không bền, năm con gái lên 2 tuổi thì chồng bà đột ngột qua đời. Từ đó bà thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường học dạy chữ Nho để sinh sống. Và cũng vào thời điểm này, bà điểm thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ “sương” (孀), thành “Sương Nguyệt Anh”, có nghĩa là “Nguyệt Anh goá chồng”.
Sương Nguyệt Anh sáng tác nhiều, nhưng không gom thành tập. Thành ra sau những năm chiến loạn binh đao đã mất đi phần lớn các sáng tác. Đến nay chỉ còn tản mác một số bài thơ như: Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự, Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh ni cô, vua Thành Thái vào Nam, cảm tác khi lính Việt đi u chiến… Và vài bài vè, như: Vè tiểu yêu, Vè Thầy Hỷ, Vè đánh đề… Trong đó, bà còn có công dịch bộ Yên Sơn ngoại sử của Trung Quốc ra thơ lục bát và một số ít bài thơ chữ Hán, thể vè lục bát. Thơ Sương Nguyệt Anh phần lớn là thơ Nôm, theo thể Đường luật. Thơ Đường luật vốn có quy tắc rất chặt chẽ, nhưng thơ của bà vẫn vương nét giản dị và gần gũi, lại bày tỏ được nỗi lòng của bà về cuộc đời trắc trở của chính mình.
Thử hỏi thế sự nổi trôi, thế nhân vô tình, hồng nhan như cánh lục bình trôi dạt liệu có mấy khắc hạnh phúc?
Để bộc lộ cuộc nợ duyên dang dở, tơ hồng đứt đoạn của mình, bà viết:
Năm canh thức nhấp… năm canh những
Nửa gối so le, nửa gối chờ
Vườn én rủ ren trên lối cũ,
Canh gà xao xác giục tình xưa…
Than ôi! Phải là buồn tủi đến mức nào mới có thể viết ra những dòng não lòng đến thế? Dẫu vẫn hay rằng mộng cầm sắt ngắn ngủi bẽ bàng, uyên ương vui vầy không bao lâu lại lẻ bầy lẻ bạn, để lại tiếc thương khôn cùng; thế nhưng vẫn cầm lòng không đặng mà trách ông Tơ bà Nguyệt khéo gán tơ duyên, âm dương đôi bờ, không còn thấy được.
Tuy thơ bà bộc lộ nỗi lòng người thiếu phụ, nhưng phần nhiều, vẫn là để đối đáp lại những người đã trêu ghẹo, đã tỏ tình với mình, nhằm nêu lên đức kiên trinh của người phụ nữ Nam Bộ. Các tác phẩm nổi tiếng như Tiễn ông Kinh Hối nhậm chức kinh lịch ở Sa Đéc, Hoạ thơ Bảy Nguyện, Hoạ thơ Phủ Ngọc, Hoạ thơ Bái Liêu, Thưởng Bạch Mai, Vịnh ni cô,….
Là người sinh sống trong xã hội đang khủng hoảng nhưng bà vẫn luôn giữ gìn những giá trị tốt đẹp của phụ nữ xưa: hy sinh vì chồng con, nguyện không tái giá để chăm lo cho con gái và bảo toàn mối tình ngắn ngủi. Trong một số bài thơ khác, Sương Nguyệt Anh cũng kín đáo gửi gắm tấm lòng yêu nước, thương dân, quan tâm đến thời cuộc, trích:
Vui lòng thánh đế nơi xe ngựa,
Xót dạ thần dân chốn lửa than
Nước mắt có cùng trời đất biết,
Biển dâu một cuộc thấy mà thương.
(Vua Thành Thái vào Nam)
Vào những năm đầu thế kỷ XX, khi cụ Phan Bội Châu phát động phong trào “Đông du” để đưa người tài sang Nhật du học, bà nhiệt tình hưởng ứng, bán một phần điền sản và vận động quyên góp để lấy tiền gửi giúp du học sinh trang trải cuộc sống khi ở Nhật. Sau đó, tuy phong trào bị đàn áp rồi thất bại, nhưng với lòng nhiệt huyết của mình, bà vẫn không nản lòng mà tiếp tục tìm mọi cách góp sức mình vào công cuộc cứu nước…
Trước những yêu sách của thực dân Pháp và sự yếu nhược của triều đình nhà Nguyễn, vận nước đang trong buổi lâm nguy, bà là người hoạt động tích cực trên mặt trận báo chí, dùng ngòi bút để đấu tranh. Năm 1917, một nhóm chí sĩ yêu nước mời bà ra làm chủ bút tờ báo Nữ giới chung, nghĩa là “tiếng chuông của nữ giới” – tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam. Ngày 1 tháng 2 năm 1918, tờ báo phát hành số đầu tiên, với mục đích nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương phát triển và đặc biệt nhất là nâng cao vị thế và vai trò của người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Mặc dù ngòi bút của Sương Nguyệt Anh vô cùng khéo léo, không hề đả kích bọn thực dân một cách chính diện, thế nhưng chính tầm ảnh hưởng và sức lan tỏa của tờ báo vẫn khiến thực dân Pháp phải e ngại và tìm cách ngăn cản. Kết quả là không lâu sau đó, vào tháng 7 cùng năm, tờ Nữ giới chung bị đình bản. Cũng ngay lúc này, biến cố lần nữa ập đến với bà, người con gái độc nhất của bà – Nguyễn Thị Vinh ngã bệnh qua đời sau khi trải qua thời gian sinh nở khó khăn.
Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai. Sau khi con gái mất, tình trạng sức khỏe của bà cũng gặp nhiều vấn đề, mắt bà thường xuyên đau nhức và sức khoẻ cũng dần suy kiệt. Căn bệnh về mắt của bà được cho là di truyền từ cha mình, tức cụ Đồ Chiểu. Nghe lời thầy thuốc, Sương Nguyệt Anh đã đưa cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Hoà (Ba Tri), nương nhờ nhà người em út tên là Nguyễn Đình Chiêm để chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi mắt bà bị mù loà hẳn.
Từ đấy, mặc dù không còn nhìn thấy ánh sáng, nhưng sớm chiều bà vẫn tiếp tục dò dẫm bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn. Bà luôn giữ tinh thần lạc quan cho đến sáng sớm ngày 12 tháng Chạp năm Tân Dậu (tức ngày 9 tháng 1 năm 1922). Sáng sớm ngày hôm đó, một ngày mùa đông làm nhiều người thương xót, Sương Nguyệt Anh tạ thế sau nhiều ngày sống chung và chống chọi căn bệnh hiểm nghèo, dương thọ 58 tuổi. Lúc đầu, mộ Sương Nguyệt Anh đặt ở Mỹ Nhơn, nhưng về sau, vào năm 1959 được đồng bào cải táng dời về nằm cạnh mộ phần của song thân bà, tức nằm trong khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu ngày nay.
Năm 1915, ông Việt sĩ sau khi nghiên cứu về Sương Nguyệt Anh đã khen ngợi bà rằng: “Cuộc đời bà đã trải qua biết bao đau khổ, nhưng biết bao nỗi khổ đó hình như để thử thách người thiếu phụ kiên trinh”. Ngoài ra, ông còn nhận định như sau:
“Nhắc đến Sương Nguyệt Anh, người ta còn thấy lại nơi bà một tấm gương hoạt động cho phái nữ lưu; người ta không quên một cây bút rắn rỏi đã từng nêu trên tờ Nữ giới chung nêu ra nhiều vấn đề lý thú về phận sự đàn bà đối với gia đình và xã hội. Trong buổi giao thời, phụ nữ nước nhà vừa ra khỏi khuê môn để tiếp xúc với văn hóa Âu Tây, bà Sương Nguyệt Anh rất xứng đáng là nữ sĩ tiền phong trên đất Việt.”
Đằng sau bóng lưng gầy yếu của người phụ nữ chịu nhiều đau thương đó là tấm lòng dám nghĩ về thiên hạ trước. Liệu có được bao người giống như bà?