Khi bóp cò thì đá lửa gõ vào và bật ra khỏi nòng một bông hoa tulip mạ vàng.
Trong bảo tàng Cung Điện Bắc Kinh có trưng bày súng đá lửa, có đạn sắt rỗng chứa thuốc nổ, ghi chú niên đại thời Khang Hy, nhưng suốt cuộc chiến Nha Phiến thứ nhất, lính Thanh chỉ bắn đạn đại bác đặc và cầm súng ngòi châm.
Vấn đề của người Mãn khi vào Trung Nguyên là quá ít so với người Hán. Năm 1840, Bát Kỳ binh chỉ có 200.000 so với 600.000 quân Lục Doanh. Dẫu cho có công lao đánh dẹp Loạn Tam Phiên, quân Lục Doanh người Hán cũng không được trọng dụng. Vũ khí trang bị của họ lúc nào cũng kém Bát Kỳ một cấp độ, những thứ hiện đại nhất chỉ trang bị cho quân tinh nhuệ quanh kinh thành và giữ bí mật. Chính Lâm Tắc Từ còn không biết nhà Thanh có pháo bắn đạn nổ và súng đá lửa.
Về quân số, lúc đầu Anh đưa đến có 4.000 lính, sau tăng lên 7.000 và cuối cuộc chiến mới lên 20.000 lính. Còn trên giấy tờ, quân Thanh đồn trú ở bốn tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tô, cộng thêm viện quân các tỉnh, là 258.000 lính. Nói đơn giản, quân Thanh cầm gậy gỗ lao lên cũng đủ đập chết hết lính Anh.
Thế nhưng kết quả: thua tất tật cả trên bộ lẫn trên biển, mất Hồng Kông, trả bồi thường chiến phí tổng cộng 30 triệu lượng bạc (tương đương cả nước thu vào một năm).
Mô típ đa số các trận chiến trên bộ đều là binh tướng Thanh bị nã vài loạt đạn pháo xong dắt nhau chạy. Hải quân dũng cảm hơn, nhưng đánh trực diện với hạm đội số 1 thế giới thì không có cơ hội nào cả, nhất là khi đạn đại bác bắn ra còn chả xuyên nổi vỏ gỗ (để gây thiệt hại thực sự cho tàu Anh, phải dùng pháo bắn đạn 68 cân ở tầm bắn hiệu quả. trong khi đó đạn pháo nặng nhất của nhà Thanh chỉ có loại 31 cân).
Một điều thú vị là dân các tỉnh ven biển không mặn mà lắm với việc hỗ trợ quân Thanh, thậm chí có hiện tượng dắt nhau ra bờ biển xem và vỗ tay hò reo khi thấy tàu mình xơi đạn chìm nghỉm
