Sức khoẻ sinh sản – BỆNH LÂY QUA ĐƯỜNG SINH DỤC: BỆNH HERPES

Herpes là một căn bệnh gây ra bởi một loại tên là herpesvirus. Virus herpes là một họ virus lớn. Tên herpes có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Herpein” nghĩa là “leo”, miêu tả khả năng gây nhiễm trùng tiềm ẩn và đặc trưng của nhóm virus này.

Hiện tại chúng ta biết có tám loại virus thuộc họ herpesvirus (virus herpes simplex loại 1 và loại 2, virus varicella-zoster, virus cytomegalovirus, virus Epstein-Barr và virus herpes loại 6, loại 7 và loại 8 có thể gây bệnh cho người).

Loại virus này được gọi chung là human herpesvirus (HHV). HHV là một nhóm các virus có cấu trúc DNA lớn, gây ra nhiều bệnh khác nhau ở người và tiềm ẩn trong cơ thể trong một thời gian dài, trong điều kiện nhất định có thể tái phát. Các bệnh lâm sàng thường gặp bao gồm thủy đậu, bệnh zona, mụn rộp và mụn rộp sinh dục. Nó có thể xâm chiếm nhiều cơ quan của cơ thể con người, xảy ra ở mọi lứa tuổi.

***

Đặc điểm:

HHV có các đặc điểm chung sau: Virus có dạng hình cầu, vỏ bọc của nhân virus là một khối 20 mặt đối xứng bao gồm 162 điểm tạo thành và lõi được cấu tạo từ DNA. Có một lớp lipo-protein bao bọc xung quanh và đường kính của virus là 150nm – 200nm. Virus có thể lây lan qua các đường trung gian. Virus herpes chủ yếu xâm lấn các mô có nguồn gốc từ ectoderm (ngoại bì) bao gồm da, màng nhầy và các mô thần kinh. Có ba nhóm virus herpes α、β、γ và những loại liên quan đến nhiễm trùng ở người bao gồm:

1. HHV-1

Virus herpes simplex type 1 (HSV-1) thuộc nhóm virus alpha herpes. Nhiễm HSV-1 chủ yếu xảy ra ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ từ 6 tháng tuổi trở lên, hầu hết là nhiễm trùng tiềm ẩn. Một số bệnh nhân có thể bị viêm nướu miệng herpes cấp tính, viêm giác mạc do herpes, viêm da do herpes, viêm não do herpes, v.v. Viêm não do herpes chủ yếu xảy ra ở trẻ em và người lớn, và tỷ lệ tử vong có thể đạt tới 70%.

2. HHV-2

Virus herpes simplex type 2 (HSV-2) là một loại thuộc nhóm virus alpha herpes. Nhiễm HSV-2 thường gặp ở bệnh nhân sau tuổi dậy thì và có thể tiềm ẩn trong hạch thần kinh, chủ yếu gây ra mụn rộp sinh dục.

3. HHV-3

Virus Varicella-zoster (VZV), là một loại thuộc nhóm virus alpha herpes, gây bệnh thủy đậu và bệnh zona. Thủy đậu là một bệnh truyền nhiễm ở trẻ em và zona là một bệnh ở người lớn.

4. HHV-4

Herpesvirus type 4 ở người (EBV), là một loại lympho virus có thể gây ra bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn ở người, và cũng có liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh ung thư hạch bạch huyết và ung thư vòm họng.

5. HHV-5

Cytomegalovirus (CMV) là một loại thuộc nhóm virus beta herpes. Có thể gây nhiễm trùng bẩm sinh, và những người bị nhiễm bệnh trong thời kì mang thai có thể truyền sang thai nhi qua đường nhau thai. Ngoài ra, CMV cũng có thể có tác dụng gây ra ung thư.

6. HHV-6

Virus Roseola (Roseolovirus) là một loại thuộc nhóm virus beta herpes. Gây ra triệu chứng phát ban cấp tính ở trẻ em (phát ban hoa hồng ở trẻ sơ sinh). Giống như các loại virus herpes khác, nhiễm trùng tiên phát có thể tạo thành nhiễm trùng tiềm ẩn.

7.HHV-7

Tương tự như HHV-6, nó thuộc về nhóm virus beta herpes. Các triệu chứng gây ra cũng tương tự HHV-6.

8.HHV-8

Nó là một loại virut khỉ (kSHV), một loại virut γ herpes. Nó có thể được tìm thấy trong các mô bạch huyết của bệnh nhân mắc sarcoma và AIDS. (Kaposi’s sarcoma (gọi tắt là KS) là một dạng ung thư gây ra bởi virus HHV8, hay còn được gọi là virus KSHV (Kaposi’s sarcoma-associated herpesvirus) hay tác nhân KS. Kaposi’s sarcoma trở nên được biết đến rộng rãi như là một trong những triệu chứng lâm sàng để xác định HIV/AIDS trong thập niên 80 của thế kỷ 20. Đây là một trong số những kiểu ung thư hiếm hoi gây ra bởi một loại virus. Loại virus này đã được khám phá vào năm 1994 – Wikipedia).

***

Biểu hiện lâm sàng

1. Bệnh thuỷ đậu – zona

(1) Herpes zoster là một bệnh da truyền nhiễm cấp tính do virus varicella-zoster gây ra. Một số bệnh nhân bị nhiễm virus mà không có triệu chứng. Virus có thể ẩn nấp trong các hạch tế bào thần kinh của dây thần kinh cột sống sau khi nhiễm trùng trong một thời gian dài. Khi sức đề kháng thấp hoặc cơ thể mệt mỏi, cảm lạnh, virus có thể phát triển và sinh sản trở lại, di chuyển lên da dọc theo sợi thần kinh Và phát bệnh.

(2) Viêm màng bồ đào mắt Varicella-zoster có thể là bẩm sinh hoặc bị lây nhiễm, gây ra hội chứng hoại tử võng mạc cấp tính dẫn đến mù loà.

(3) Bệnh zona ở tai được mô tả lần đầu tiên vào năm 1907 bởi RansayHunt, do đó, nó còn được gọi là hội chứng RamseyHunt hoặc hội chứng Hunt, hay hội chứng Hunter, là một bệnh nhiễm varicella-zoster virus. Triệu chứng là đau ở một bên tai rất nghiêm trọng, mụn rộp ở tai và liệt thần kinh ngoại biên, kèm theo rối loạn thính giác và mất thăng bằng. Trong một số trường hợp, dây thần kinh số VII (dây thần kinh mặt) bị virus zona tấn công, bệnh nhân sẽ có biểu hiện liệt mặt cùng bên với mụn nước.

2. Bệnh do virus herpes simplex gây ra

(1) Herpes simplex phổ biến ở trẻ sinh non và cũng có thể xảy ra ở trẻ sinh đủ tháng. 70% là do loại HSV-2. Nó thường xuất hiện từ 3 đến 5 ngày sau khi sinh. Nó biểu hiện dưới dạng mụn nước và loét da, niêm mạc miệng và kết mạc xuất hiện mụn nước. Trong trường hợp nghiêm trọng, nó có thể đi kèm với sốt, khó thở, vàng da…

(2) Phụ nữ mang thai bị mụn rộp sinh dục thường bị virus herpes trong âm hộ tái phát, khi bị nhiễm virut herpes simplex và tiềm ẩn trong cơ thể, chúng hoạt động trở lại khi phụ nữ bước vào thời kì thai kì. Thông thường có 2 đến 3 vết loét hoặc mụn nước ở âm hộ, quá trình này xảy ra nhanh chóng và tự khỏi trong khoảng một tuần. Nếu phụ nữ mang thai trong ba tháng đầu bị nhiễm virus (trong vòng ba tháng đầu của thai kỳ) và có các triệu chứng rõ ràng, thì có khả năng xảy ra sẩy thai hoặc thai chết lưu. Nếu bị nhiễm virus herpes trong ba tháng thứ ba (ba tháng cuối của thai kỳ), virus có thể lây sang thai nhi, khiến trẻ sơ sinh dễ bị herpes sơ sinh, có thể dẫn đến tử vong ở trẻ sơ sinh.

(3) Herpes sinh dục, là một bệnh lây truyền qua đường tình dục gây ra bởi virus herpes simplex (HSV), chủ yếu là loại HSV-2, và một số ít là loại HSV-1. Đây là một trong những bệnh phổ biến lây truyền qua đường tình dục. Mụn rộp sinh dục có thể tái phát nhiều lần, ảnh hưởng lớn hơn đến sức khỏe và tâm lý của bệnh nhân, nó cũng có thể lây nhiễm cho trẻ sơ sinh qua nhau thai và ống sinh, dẫn đến nhiễm trùng bẩm sinh cho trẻ sơ sinh. Vùng bị nhiễm bệnh có cảm giác nóng rát, sau đó xuất hiện ban đỏ, kèm theo ngứa. Các nốt sẩn nhanh chóng trở thành mụn nước nhỏ và sau 3 đến 5 ngày chúng trở thành mụn mủ, vỡ ra và loét. Sau khi loét, vết loét hình thành vảy và cuối cùng là lành lại. Bệnh có thể kéo dài 20 ngày hoặc lâu hơn. Trong vòng 1 đến 4 tháng có thể bị tái phát. Các triệu chứng tái phát chủ yếu xảy ra ở âm hộ, cổ tử cung v.v. Các triệu chứng sẽ nhẹ hơn so với lần đầu, thời gian cũng ngắn hơn. Các tổn thương thường biến mất trong khoảng 10 ngày.

(4) Viêm miệng do mụn rộp xuất hiện ở miệng, nướu, lưỡi, vòm miệng và hầu họng. Nó xuất hiện dưới dạng một đám mụn nước nhỏ xuất hiện nhanh chóng và nhanh chóng bị vỡ ra để hình thành vết loét bề mặt. Nó cũng có thể bắt đầu xuất hiện dưới dạng ban đỏ, loét nông và kèm theo đau. Loại này phổ biến ở người lớn.

(5) Viêm não Herpes simplex là bệnh truyền nhiễm phổ biến nhất xảy ra ở hệ thống thần kinh trung ương do nhiễm virus herpes simplex. Nó thường liên quan đến thùy thái dương, thùy trán và hệ thống limbic của não, gây hoại tử xuất huyết mô não và gây tổn thương não.

(6) Herpes eczema thường xảy ra ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị bệnh chàm hoặc viêm da, chủ yếu là do HSV-1, biểu hiện dưới dạng mụn nước dày đặc hoặc mụn mủ xuất hiện ở thân trên, ở cổ và đầu, và đóng thành từng mảng lớn.

———

Lời người dịch: VÌ ĐÂY KHÔNG PHẢI LÀ CHUYÊN NGÀNH CỦA MÌNH NÊN CÒN CHỖ NÀO SỬ DỤNG THUẬT NGỮ CHƯA ĐÚNG, HOẶC THÔNG TIN SAO SAI LỆCH XIN CHỈ RA GIÚP MÌNH. CÁM ƠN MỌI NGƯỜI.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *