SỰ SUY YẾU CỦA ĐẾ CHẾ ROME

Hai thế kỉ Pax Romana bắt đầu từ thời hoàng đế Augustus đã chấm dứt bằng vụ ám sát Hoàng đế Commodus năm 192. Trong suốt thế kỉ III, đế chế Rome đã gặp một cuộc khủng hoảng chính trị và quân sự hầu như không thể tránh được. Hàng chục hoàng đế giành giật ngai vàng trong một thời gian ngắn, và nhiều người trong số họ không hơn gì một kẻ đầu cơ chính trị hoặc một tư lệnh quân đoàn dùng tiền bạc để mua lòng trung thành của tướng sĩ dưới quyền. Trong những năm đó, cán cân quyền lực trong đế chế đã nghiêng hẳn về phía quân đội. Các cuộc chiến bùng nổ ở các biên giới phía bắc với dân German và ở biên cương phía đông với đế chế Sassanid đã làm vị thế của các hoàng đế-chiến binh được nâng cao, dù sự cai trị cuả họ ngày một bấp bênh, do phải phụ thuộc vào chiến tích và lòng trung thành của binh sĩ, những thứ chưa bao giờ hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của họ. Hai yếu tố ổn định đế chế là một hoàng đế mạnh và một quân đội có kỉ luật bắt đầu tan rã. Yếu tố thứ ba là Viện Nguyên Lão, trước kia là nguồn cảm hứng và là lực lượng bảo vệ của nhà nước, nay không có sự quan tâm và cũng không có khả năng can thiệp vào công việc nhà nước, một điều cho thấy nền tảng dân chủ của việc điều hành đế chế đã sụt giảm thê thảm. Trong khi đó, các hoàng đế lại thâu tóm ngày càng nhiều quyền hành và cai trị thông qua các sủng thần của họ, những người quan tâm tới quyền lợi bản thân và phe nhóm hơn là sự hưng vong của đế chế. 

Thời kì này, nền kinh tế đế chế cũng bắt đầu suy sụp, do những cuộc cướp bóc của man dân ở các biên giới đã làm suy yếu sự ổn định kinh tế của vùng ngoại biên. Sự phản ứng bị động bằng quân sự của đế chế vừa không mấy hiệu quả mà lại đẩy chi phí quốc phòng lên cao. Ngoài ra, các hoàng đế lại cung cấp cho các công dân Rome thực phẩm và các trò chơi công cộng miễn phí, một chính sách mang vỏ bọc dân tuý để dành lợi thế chính trị khá có hiệu quả, nhưng lại làm kiệt quệ quốc khố vốn đã không còn dư dả như xưa. Thêm vào đó là vấn đề thiếu hụt bạc, nền tảng của hệ thống tiền tệ đế chế, khiến các hoàng đế phải lấp liếm bằng cách đúc những đồng tiền mới không đủ khối lượng bạc tiêu chuẩn để lưu hành. Điều này đến lượt nó lại khiến dân chúng tích trữ những đồng bạc cũ mà họ có và rất ngại ngần khi dùng đồng tiền mới. Hệ quả là toàn bộ hệ thống lưu thông tiền tệ của nền kinh tế đế chế gần như rơi vào tình trạng đóng băng. 

Một khó khăn khác là vấn đề xung đột tôn giáo trong đế chế. Ngay từ những ngày đầu đi chinh phục thời cộng hoà, người Rome đã theo đuổi một chính sách dung hợp khá thoáng đối với nhiều tôn giáo của các dân tộc bị trị. Họ chỉ bắt buộc các tôn giáo đó bày tỏ một sự tôn kính chính thức trong những ngày lễ lớn với các vị chủ thần truyền thống của người Rome, và trong giai đoạn đế chế, là tôn kính cả các hoàng đế đã được Viện Nguyên Lão phong thần. Đó là điểm thống nhất các dị biệt trong đế chế, nhưng các Kitô hữu đã từ chối sự thoả hiệp với thuyết đa thần này. Cùng với đó, lối sống theo Tin Mừng của các Kitô hữu đã như một cái gai đâm vào lòng những người ở xung quanh: “Họ theo tập quán của dân địa phương trong cách ăn mặc và lối sống, mà vẫn cho thấy một nếp sống lạ lùng mà ai cũng phải nhận là khó tin… Họ lập gia đình và sinh dưỡng con cái như mọi người nhưng không phá thai. Họ ăn chung một bàn với nhau nhưng không chồng chung vợ chạ…”  Thêm vào đó, người ta lại nhầm lẫn các cử hành Phụng vụ như Bí tích Thánh Thể và cử chỉ Trao bình an cho nhau trong thánh lễ của các Kitô hữu, là các hành vi vô luân. Do đó, các Kitô hữu phải lãnh nhận sự bách hại từ chính quyền, nhưng không hoàn toàn chính thức mà chỉ bằng các chỉ dụ miệng từ các hoàng đế, và cung cách cấm đạo thì tuỳ theo phân định của các thống đốc tỉnh. Các cuộc bách hại bán chính thức đó có lẽ để nhằm kềm chế sự phát triển mau chóng của Kitô giáo cũng như bảo đảm cung cấp nạn nhân thường xuyên cho các đấu trường, nhưng không gây xung khắc quá căng thẳng trong xã hội Rome. Vào năm 250, Hoàng đế Decius này ban bố chiếu chỉ cấm đạo chính thức đầu tiên trong đế chế, và việc bách hại đạo đã ngày càng tàn bạo dần theo thời gian. 

Thời đó, Rome cũng bắt đầu phải đối mặt với sự nan giải của vấn đề nô lệ. Trước kia, chưa từng có một xã hội nào đã tổ chức thể chế nô lệ đến mức độ hay sử dụng nô lệ với số lượng đến như Rome. Chế độ nô lệ của Rome, không như của Hoa Kì, không bao gồm các thành viên của một nhóm sắc tộc duy nhất, mà  bất cứ ai cũng có thể gặp vận rủi và trở thành nô lệ.  Trong thời kì cuối nền cộng hoà, các chiến thắng vĩ đại của Pompeius tại vùng Levant, Caesar tại Gaul, Antonius tại Hy Lạp và Augustus tại nhiều nơi trên lòng chảo Địa Trung Hải đã tuôn một dòng chảy nô lệ gần như bất tận về cho đế chế. Dòng người nô lệ rẻ tiền gia tăng đã cho phép sử dụng một lượng lớn lao động để tận dụng đất đai và vốn của giới hữu sản, điều này làm mở rộng các latifundium, xương sống của nền kinh tế Rome.  Thế nhưng, sự phát triển kinh tế đó hẳn nhiên không bao gồm sự cải thiện đời sống của các nô lệ, và vô tình đã làm đào sâu thêm khoảng cách thu nhập giữa các nhóm xã hội. Đến thế kỉ III, nền kinh tế dựa trên nô lệ đã suy yếu đến độ không đủ cáng đáng nhiệm vụ hỗ trợ quân đội phòng giữ các tuyến biên giới. Một lý do chính là do nền kinh tế dựa trên nô lệ đã không thể giải quyết hai vấn đề mà mọi nền kinh tế đều phải đối phó: việc tạo nên những biện pháp khuyến khích để bảo đảm rằng nhân công sẽ lao động nhiệt tình; và việc tuyển dụng người mới để thay thế những người cũ. Thứ nhất, khả năng được trả tự do tuy có đem lại khích lệ cho các nô lệ, nhưng điều đó có lẽ là không đủ; tệ hơn nữa, sự liên kết nô lệ với lao động chân tay đã làm mất đi chân giá trị của việc lao động đối với xã hội Rome, và nó cũng làm tiêu tan sự quan tâm đối với việc đổi mới công nghệ. Thứ hai, kể từ thời Hoàng đế Hadrianus, các chiến thắng vẻ vang đem lại các đoàn nô lệ mới đông đảo như xưa đã ngày càng ít đi. 

Trong nhiều tỉnh của đế chế, sự sụt giảm dân số ở nông thôn và việc bỏ hoang ruộng đất cũng là một vấn đề lớn. Chính cuộc chiến Punic II hao người tốn của với Carthage đã khởi động vòng xoáy chết người này. Để tránh sự tan vỡ của quân đội Rome trước đạo quân bách chiến bách thắng của Hannibal, người Rome đã thi hành chính sách ‘vườn không nhà trống’ nhằm tránh một cuộc đụng độ quân sự khác trong thời gian hồi phục, đồng thời cũng để cắt bỏ mọi nguồn cung cấp cho quân Carthage. Thế nhưng điều này lại khiến một số lớn người dân trên bán đảo Italia phải rời bỏ nhà cửa và tụ tập về Rome.  Đất đai của họ sau chiến tranh lại bị các cựu quân nhân giàu lên nhờ chiến lợi phẩm chiếm lấy.  Việc mở rộng các latifundium trong các thế kỉ sau đã tiếp tục xô đẩy nhiều nhà canh tác nhỏ ra khỏi đất đai và trôi dạt về thủ đô Rome, nơi bánh mì và hí trường đã mua được sự dễ bảo và những lá phiếu của họ. Đối mặt với việc số người canh tác và đóng thuế giảm, chính quyền Rome cố gắng một cách tuyệt vọng để khai hoang và tái định cư những ruộng đồng bị bỏ hoang. Bắt đầu từ thế kỉ III, chính quyền lâm vào tình trạng khó khăn đã không muốn bỏ qua bất cứ nguồn thu nhập khả dĩ nào. Họ tàn nhẫn trưng thu lương thực, cột chặt nông dân và con cái họ vào đất đai, thậm chí còn buộc những người nông dân phải trả thuế thay cho các láng giềng vắng mặt. Trong những thế kỉ sau đó, nhiều nông dân đã lựa chọn việc chạy trốn khỏi bàn tay tàn bạo của đế chế hơn là phải đối diện với sự phá sản và thân phận nô lệ ở quê nhà. 

Hệ thống văn hoá của thời cổ đại chủ yếu đề cập đến những người có quyền lực và giới tinh hoa xã hội. Thậm chí ngay cả khi họ không thể dùng chất xám để phát triển công nghệ thì những nhà trí thức của thời đại này cũng đem lại một sự an tâm và tự tin nhất định cho xã hội. Các văn sĩ và sử gia xuất chúng như Vergilius, Livius, Senaca, Tacitus, Epictetus, Suetonius đã cung cấp một ý nghĩa tồn tại và một cái nhìn lạc quan về sức mạnh kì diệu của đế chế. Thế nhưng, sau thời kì triển nở của Pax Romana, nền văn hoá Rome dường như sản sinh ra ít nhà tư tưởng độc đáo hơn. Một sự cam chịu đáng buồn nào đó đang lan toả trong các tác phẩm của các văn sĩ thế kỉ II. Hoàng đế Marcus Aurelius trong tác phẩm Suy tưởng đã diễn tả đức tính cam chịu của những người khắc kỉ: “Khi có sự bó buộc, tại sao nhất định phải cưỡng lại nó?” Chính vị hoàng đế này là một trường hợp bi thảm khi được xem là một đế vương-triết gia lý tưởng theo cái nhìn của Plato nhưng lại phải lao tâm khổ tứ vì những vấn đề quân sự nan giải của đế chế Rome chứ không được ở yên thi thố tài cai trị. Thế nhưng một hoàng đế như Marcus Aurelius chỉ là hi hữu trong lịch sử Rome. Bởi lẽ Rome đã dành được vị thế ưu việt của nó trong thế giới cổ đại không phải nhờ những thành tựu chính trị, kinh tế hay văn hoá, mà từ đầu đến cuối, nó là một đế chế được xây dựng bằng sức mạnh của các chiến binh.

Lạc Vũ Thái Bình – Mary D. Han 

Huế – Sài Gòn, 10-2021

Thư mục tài liệu tham khảo 

1.CHAMBERS Mortimer, Lịch sử văn minh Phương Tây, Văn hoá thông tin, 2004.

2.DANIELOU Jean, Tân lịch sử Giáo Hội tập 1, không đề nxb, 2002.

3.DK và Viện Smithsonian, Lịch sử thế giới, Dân trí, 2017.

4.KAPLAN Robert, Sự minh định của địa lý, Hội nhà văn, 2017.

5.RODGERS Nigel, Rome đế quốc hùng mạnh nhất, Phụ nữ, 2008.

6.THOẠI Nguyễn Thế, Giáo hội đi trong nhân loại, không đề nxb, 1991.

7.THOẠI Nguyễn Thế, Giáo phụ học, không đề nxb, 2008.

8.TURCHIN Peter, Sự thăng trầm của các đế chế, Từ điển bách khoa, 2012.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *