SỰ KHÁC NHAU GIỮA ĐA NHÂN CÁCH VÀ TÂM THẦN PHÂN LIỆT, CHÚNG CÓ YẾU TỐ DI TRUYỀN HAY KHÔNG ?

  1. Khái niệm đa nhân cách
    Đa nhân cách hay còn gọi là rối loạn đa nhân cách, có tên tiếng anh là Multiple Personality Disorder – MPD, thuộc vào tổ hợp những hội chứng có mối liên quan đến chấn thương tâm lý, hậu chấn thương tâm lý, rối loạn căng thẳng cấp tính,… Sau các cuộc chấn thương tâm lý nặng nề xảy ra thì các nhân cách mới bắt đầu hình thành và chiếm lấy một phần của cơ thể. Mỗi nhân cách xuất hiện nhằm mục đích giải quyết và ứng phó với các tình huống khó khăn.
    Những người mắc phải chứng rối loạn tâm thần này sẽ tồn tại ít nhất hai nhân cách tách rời trong cùng một cơ thể. Các nhân cách này tuy sống cùng một thể xác nhưng lại có nhiều xu hướng đối đầu nhau. Chúng sẽ xuất hiện vào các thời điểm khác nhau, hoàn toàn không có ký ức hoặc biết được sự tồn tại của nhau.
    Theo nghiên cứu nhận thấy rằng, chứng rối loạn đa nhân cách chính là tình trạng một cá nhân thường xuyên quên đi một số dữ liệu, thông tin, sự kiện quan trọng của bản thân. Từ đó, gây nên những lỗ hổng trong ký ức, họ không thể ghi nhớ được những việc mà bản thân đã làm khi nhân cách khác tồn tại.
    1.1 Nguyên nhân thường thấy
    Từng trải qua những tổn thương sâu sắc ở thời thơ ấu như bị ngược đãi, đánh đập, thiếu sự quan tâm của cha mẹ, không được chăm sóc, quan tâm, các đối tượng từng bị lạm dụng tình dục, c.ưỡng h.iếp… Nguyên nhân bị đa nhân cách có thể do có vấn đề về thần kinh, não bộ: Chấn thương não, não thiếu chất serotonin… Cũng có một số quan điểm cho rằng: Con người từ khi sinh ra đã mang trong mình rất nhiều những nhân cách khác nhau. Nếu như được nuôi dạy trong môi trường có đạo đức và lối sống chuẩn mực thì nhân cách tốt sẽ phát triển và vùi lấp các nhân cách xấu khác. Tuy nhiên, chúng chỉ bị vùi lấp chứ không bị mất đi. Khi gặp một tác nhân nào đó, nhân cách kia sẽ trỗi dậy, bệnh đa nhân cách được hình thành.
    1.2 Triệu chứng
    · Người bệnh tồn tại nhiều nhân cách khác nhau. Mỗi bệnh nhân sẽ có ít nhất hai nhân cách riêng biệt thay phiên và liên tục kiểm soát hành vi của người bệnh.
    · Có các khoảng trống trong ký ức: Đối với những người bị rối loạn đa nhân cách sẽ không thể ghi nhớ được trọn vẹn các lời nói, hành động mà bản thân đã làm khi ở nhân cách khác. Trong ký ức của họ luôn có một khoảng đen và họ nghĩ rằng bản thân đã ngủ trong thời gian đó.
    · Những người xung quanh có thể thấy sự đối lập trong nhân cách của người bệnh. Người bệnh thường sẽ có tính cách chính là nhút nhát, rụt rè, yếu đuối, dễ bắt nạt. Các nhân cách mới sẽ khác biệt so với nhân cách thật của chủ thể, ví dụ như chống đối, cá tính, nham hiểm,…
    · Khi các nhân cách mới xuất hiện sẽ chi phối và kiểm soát toàn bộ các suy nghĩ, hành vi, cảm xúc của người bệnh. Sau khi trở về với nhân cách thật, chủ thể sẽ không thể nhớ được những gì bản thân đã làm.
    · Người bệnh rối loạn đa nhân cách cũng có thể quên đi những thông tin, sự kiện quan trọng có liên quan đến bản thân, chẳng hạn như các cuộc hẹn, nơi sinh sống, nơi làm việc, sở thích, bạn bè,…
    · Bệnh nhân còn có nhiều nguy cơ gặp phải các vấn đề sức khỏe tâm thần khác như trầm c.ảm, rối loạn ăn uống, lạm dụng rượu bia, muốn t.ự s.át, bị cưỡng chế, thay đổi cảm xúc đột ngột,…
    · Một số trường hợp nếu các nhân cách chung sống hòa bình với nhau thì người bệnh cũng sẽ không gặp nhiều khó khăn trong quá trình sinh hoạt, quan hệ xã hội.
    · Các nhân cách mới của người bệnh có thể xuất hiện ngay sau khi họ trải qua các sự kiện gây chấn thương.
  2. Khái niệm tâm thần phân liệt
    Tâm thần phân liệt được xếp vào một nhóm những rối loạn não ở mức độ nghiêm trọng, đây là một dạng rối loạn phát triển nguy hiểm. Tình trạng này được đặc trưng bởi sự suy giảm về quá trình suy nghĩ cùng sự thiếu hụt các kỹ năng đáp ứng cảm xúc điển hình. Những người mắc phải chứng bệnh này sẽ thường xuyên gặp phải ảo giác, bị rối loạn cảm xúc, hành vi, trí nhớ không được đảm bảo, một số trường hợp còn xuất hiện các triệu chứng của trầm cảm.
    Khác với rối loạn đa nhân cách, người bị tâm thần phân liệt chỉ xuất hiện ảo giác, họ có thể nghe, nhìn, ngửi thấy những hình ảnh, mùi thơm, sự việc nào đó không có thực. Thực ra đây không phải là một nhân cách khác của người bệnh mà nó chỉ là sự gián đoạn trong suy nghĩ và cảm nhận của họ.
    2.1 Nguyên nhân
    · Do cuộc sống gia đình không hạnh phúc, hoặc do tâm lý căng thẳng, mệt mỏi, stress quá độ hoặc sang chấn tâm lý cũng góp phần thúc đẩy bệnh, dẫn đến có sự thay đổi trong hóa học thần kinh, đặc biệt là thay đổi hoạt động trong các dấu hiệu truyền dẫn dopamine và glutamate. Ngoài ra còn có những vấn đề trong giai đoạn mang thai, chẳng hạn sinh con khi đã lớn tuổi, thiếu chất dinh dưỡng hoặc mẹ dùng một số thuốc làm ảnh hưởng đến thần kinh của trẻ.
    2.2 Triệu chứng
    · Người bệnh tồn tại các hoang tưởng như tự cao, bị hãm hại, bị chi phối. Họ luôn có cảm giác bản thân có một siêu năng lực vượt trội nào đó hoặc cho rằng có ai đó đang theo dõi và muốn ám sát họ.
    · Bệnh nhân có thể nghe thấy các giọng nói lạ hoặc âm thanh vang lên trong đầu hoặc cứ văng vẳng bên tai. Ảo thanh thường là các âm thanh mang tính chất tiêu cực như tiếng cười nhạo, chửi bới, buộc tội, trách móc,… Khi nghe thấy những âm thanh kì lạ, bệnh nhân cũng có kèm theo một số phản ứng phù hợp như bịt tai, thu mình, quát tháo, la hét, nổi điên,…
    · Những người mắc chứng tâm thần phân liệt thường luôn ở trong trạng thái lo sợ, hoảng loạn, bất an, họ có xu hướng thu mình lại và không muốn gần gũi, tiếp xúc với bất kì ai.
    · Giảm sự biểu lộ về tình cảm, người bệnh sẽ không có quá nhiều phản ứng tích cực trước những sự kiện vui hoặc cũng không tỏ thái độ ủ rũ trước những vấn đề đau buồn. Một số trường hợp còn có thể phản ứng ngược lại với bình thường, chẳng hạn như cười khi buồn và khóc khi vui.
    · Bệnh nhân tâm thần phân liệt hoàn toàn không thể tự nhận thức được tình trạng sức khỏe của bản thân. Họ không nghĩ rằng mình bị bệnh và có thể từ chối việc thăm khám bác sĩ, không chấp nhận những lời nhận xét hay chẩn đoán mắc bệnh tâm thần.
    · Người bệnh có nhiều xu hướng tách rời khỏi cuộc sống thực tại và họ gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt đời sống hàng ngày.
    · Bệnh nhân luôn trong trạng thái sợ hãi, lo lắng, hoang tưởng bởi các triệu chứng bệnh có thể xuất hiện thường xuyên vào bất cứ lúc nào.
    · Mất đi ý muốn làm việc, họ trở nên thẫn thờ nhưng đây hoàn toàn không phải do sự lười nhác. Người bệnh dường như không thể tiếp tục việc học tập hoặc theo đuổi công việc của mình. Nếu tình trạng bệnh chuyển biến nặng hơn đôi khi bệnh nhân còn không thể tự hoàn thành các công việc đơn giản hàng ngày, kể cả vệ sinh cá nhân.
    YẾU TỐ DI TRUYỀN
    Nguy cơ cao nhất đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của đa nhân cách là các sang chấn tâm lý, không di truyền. Do đó, nếu cha mẹ trẻ có người bị đa nhân cách thì trẻ sinh ra không bị đa nhân cách. Nhưng, vẫn có nguy cơ nhất định có thể xuất hiện trong quá trình trưởng thành nếu trẻ bị các sang chấn do các nhân cách thay thế của cha mẹ mắc đa nhân cách gây ra.
    Còn về tâm thần phân liệt thì có yếu tố di truyền. Theo thống kê, khoảng 1% dân số có nguy cơ mắc tâm thần phân liệt. Tuy nhiên ở người có tiền sử gia đình mắc bệnh này là nguy cơ bị bệnh tăng lên 12%. Nhưng cũng không thể khẳng định 100% việc bệnh tâm thần có di truyền không đối với một đứa trẻ vừa mới sinh ra. Khi gia đình có người mắc bệnh thì trẻ có nguy cơ cao hơn người bình thường, nhưng không nhất định sẽ gặp phải. Việc sống lành mạnh và uống thuốc theo chỉ dẫn của bác sĩ chuyên ngành cũng là một cách ngăn chặn việc sinh con mắc phải bệnh về tâm thần.
    Nguồn: Tạp chí Tâm Lý Học

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *