Sau Thế chiến 2, người Mỹ đã giúp nước Nhật “lột xác” ra sao?Chiến tranh Thế giới th…

Sau Thế chiến 2, người Mỹ đã giúp nước Nhật “lột xác” ra sao?

Sau Thế chiến 2, người Mỹ đã giúp nước Nhật “lột xác” ra sao?
Chiến tranh Thế giới thứ Hai kết thúc, ngày 02/09/1945, trên Chiến hạm Missuri neo đậu trong vịnh Tokyo, các đại diện có thẩm quyền của Đế quốc Nhật Bản ký biên bản xác nhận sự đầu hàng vô điều kiện của họ trước đại diện toàn quyền các nước đồng minh chống phát xít.
Diễn văn buổi ký kết do tướng Douglas MacArthur đọc có đoạn như sau: “Thế giới đã im tiếng súng. Thảm kịch tồi tệ kết thúc. Chiến thắng vĩ đại đã đến. Bầu trời sẽ không còn những cơn mưa chết chóc, trên đại dương mênh mông sẽ chỉ có những người thương nhân đi lại trao đổi hàng hóa. Hòa bình đến với thế giới. Nhiệm vụ của chúng ta hoàn tất.”
Chiến tranh Thế giới thứ Hai kết thúc, nước Nhật tan hoang bởi bom đạn, phần đông dân số rơi vào cảnh đói ăn trầm trọng. 30% dân số không có nhà ở, 6 triệu người lính và dân thường từ khắp các vùng chiến sự ở Thái Bình Dương quay trở về Nhật. 66 thành phố chính bị tàn phá nặng nề, cuộc sống ở khu vực nông thôn chỉ còn tương đương 65% so với trước Chiến tranh. Tại Tokyo, 65% các khu vực dân cư bị phá hủy hoàn toàn, con số này tại các thành phố Osaka, Nagoya (thành phố lớn thứ 2 và thứ 3 tại Nhật ở thời điểm đó) lên đến 57% và 89%.
Với thành tích nổi bật trong 3 cuộc chiến lớn bao gồm Chiến tranh Thế giới thứ nhất, Chiến tranh Thế giới thứ hai và chiến tranh Triều tiên cũng như khả năng cải cách tuyệt vời khi đảm nhiệm chức vụ Thống tướng Quân đội Philippines, Douglas MacArthur được chọn làm Tư lệnh Tối cao Tổng lực lượng Đồng Minh tại Nhật Bản. Ông chịu trách nhiệm cao nhất trong việc cải tổ và xây dựng lại nước Nhật sau chiến tranh.
Ngay từ ban đầu, bất chấp sự phản đối từ đại diện các nước đồng minh khác, Douglas MacArthur từ chối trừng phạt Nhật hoàng Hirohito. Ông nghiên cứu lịch sử của những người thắng cuộc trước đó bao gồm Alexander, Napoleon và Hitler và đi đến kết luận rằng tất cả hoạt động chiếm đóng của họ đã thất bại bởi họ lấy máu để trả thù máu. Với kinh nghiệm tiếp quản hoạt động cải tổ đất nước ở Philippines và vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa châu Á, ông đã khéo léo đưa Nhật hoàng vào vị trí giúp hỗ trợ tốt nhất cho tham vọng mang dân chủ đến cho nước Nhật.
Người Mỹ tin rằng dân chủ chỉ có thể có được khi họ cải tổ mọi mặt của nước Nhật. Và chỉ trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1952, những cải cách mà người Mỹ với đại diện là Douglas MacArthur thực hiện đã mang lại nhiều bước tiến cho nước Nhật. Ảnh hưởng tích cực từ những cải cách đó vẫn tiếp tục diễn ra trong xã hội Nhật hiện đại, ở thời điểm 70 năm sau.
Một nước Nhật mới trong mô hình phát triển kiểu Mỹ
Những thay đổi đầu tiên đến từ lĩnh vực chính trị. Nhật áp dụng hiến pháp mới (nhiều khi người ta gọi đó là hiến pháp MacArthur bởi người Mỹ đóng vai trò chủ chốt trong việc soạn thảo ra nó). Hiến pháp này khác hoàn toàn với hiến pháp thời Thiên hoàng Minh trị năm 1889. Những thay đổi quan trọng nhất trong hiến pháp Nhật năm 1946 bao gồm:
Chủ quyền đất nước thuộc về quốc dân chứ không phải Thiên hoàng.
Thiên hoàng là biểu tượng cho sự đoàn kết và văn hóa Nhật, giống như Nữ hoàng Anh, nhưng không mang quyền lực chính trị thực tế. Thiên hoàng chỉ được tiến hành các hành vi liên quan đến việc nước theo quy định của bản Hiến pháp này và Thiên hoàng không có quyền lực liên quan tới chính phủ.
Quốc hội Nhật là cơ quan chính trị có quyền lực cao nhất, thành viên quốc hội là những người được bầu cử tự do.
Phụ nữ được hưởng thêm nhiều quyền mới, trong đó có quyền bầu cử, bình đẳng giới được nâng lên mức cao nhất so với tất cả các bản hiến pháp trước đó.
Chính quyền các địa phương được củng cố để tạo điều kiện cho mọi người dân tham gia vào các sinh hoạt chính trị.
Công dân có thêm nhiều quyền dân sự mới, trong đó bao gồm quyền tự do ngôn luận, quyền lực của cảnh sát được giảm bớt và được kiểm soát chặt chẽ
Cuối cùng, giải tán quân đội theo điều 9 Hiến pháp, Nhật không được phép duy trì quân đội hoặc tham gia vào bất kỳ cuộc chiến nào.
Lĩnh vực kinh tế của Nhật cũng được cải tổ mạnh mẽ. Cấn nhấn mạnh rằng từ trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai, Nhật đã là cường quốc kinh tế hàng đầu châu Á. Phần lớn các tập đoàn nổi tiếng Nhật của Nhật đã được thành lập và phát triển mạnh mẽ từ trước Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Nhưng cải tổ của người Mỹ giúp mang đến môi trường kinh tế linh hoạt, nhạy bén hơn, người nông dân được vươn lên làm chủ tư liệu sản xuất của mình.
Trong lĩnh vực kinh tế, những thay đổi được đưa ra theo hướng tạo ra môi trường kinh tế dân chủ hơn. Trước Chiến tranh Thế giới, người dân phải thuê đất nông nghiệp, nông dân không được làm chủ mảnh đất mà mình canh tác mà phải thuê đất từ địa chủ, họ cũng chỉ được hưởng lợi 50% lợi tức mà họ tạo ra được từ mảnh đất đó. Chính vì điều này mà nhiều nông dân sống trong cảnh đói khổ cùng cực. Cuộc cải cách ruộng đất đã lấy đất từ địa chủ và phân phối lại cho nông dân, người nông dân được sở hữu đất nông nghiệp.
Đồng thời người Mỹ cũng giúp cho những người làm công trong lĩnh vực công nghiệp độc lập hơn bằng cách thay đổi luật pháp để khuyến khích các thành lập các nghiệp đoàn, trước Chiến tranh Thế giới, Nhật chỉ có vài nghiệp đoàn nhưng đến năm 1949, hơn một nửa số công nhân đã tham gia nghiệp đoàn. Để dân chủ hóa môi trường kinh tế và khuyến khích cạnh tranh, người Mỹ còn có ý định chia nhỏ các tập đoàn kinh tế lớn nhưng chính sách này không thể được áp dụng bởi nó không phù hợp với mô hình phát triển kinh tế mà Nhật đã theo đuổi trong khoảng thời gian quá dài.
Trong đời sống xã hội, người Mỹ muốn người Nhật hiểu hơn về dân chủ. Người Mỹ thay đổi cả hệ thống giáo dục và luật pháp áp dụng với gia đình. Chính phủ bị mất quyền quản lý giáo dục và kiểm duyệt sách giáo khoa. Trong gia đình, mọi thành viên đều có quyền tham gia vào việc quản lý gia đình.
Người Mỹ mang đến cuộc cách mạng về bình đẳng giới cho phụ nữ Nhật
Douglas MacArthur được coi như “đấng cứu thế” cho bình đẳng giới của phụ nữ Nhật. Nếu như trong quá khứ, phụ nữ Nhật từng không được đi học, nhiều người không biết đọc biết viết hoặc nếu họ được đi học, họ không được học Hán tự, vốn từng được coi như ngôn ngữ của tầng lớp quý tộc. Douglas MacArthur thay đổi tất cả.
Ngay từ trong hiến pháp, ông quy định phụ nữ được phép đi học. Ông mở thêm 26 trường đại học dành riêng cho phụ nữ. Sau đó, trong Luật Lao động, ông góp phần đưa ra quy định trả lương công bằng cho phụ nữ. Trong Luật Bất động sản, phụ nữ được đứng tên cùng chồng với những tài sản mua sau hôn nhân và tài sản được chia trong trường hợp ly dị. Phụ nữ cũng được đảm bảo toàn bộ quyền giám hộ con cái nếu hai vợ chồng chia tay.
Nhờ những thay đổi đó, vị trí của phụ nữ Nhật trong gia đình và xã hội đã được cải thiện đáng kể. Ngày nay, dù bình đẳng giới ở Nhật chưa thể so sánh với một số nước Bắc Âu nhưng đã có bước tiến dài đối với quá khứ và phần đông các nước châu Á. Phụ nữ Nhật đóng góp nhiều cho thị trường lao động, tham gia vào chính trị, trong gia đình, phụ nữ nắm vai trò quyết định, được hưởng tài sản chung khi ly dị và dù điều kiện tài chính ra sao cũng vẫn được nuôi con chỉ trừ khi người phụ nữ đó từ chối.
Một nước Nhật hùng mạnh với vị thế hàng đầu thế giới như hiện nay là nhờ vào rất nhiều yếu tố. Trước tiên, bản thân người Nhật rất sáng tạo, làm việc có kỷ luật, chính phủ đưa ra nhiều chính sách ưu đãi giúp các doanh nghiệp. Thế nhưng đóng góp của người Mỹ vào việc cải thiện môi trường pháp lý, xã hội, kinh tế của Nhật là không hề nhỏ. Sau này khi người Mỹ và các lãnh đạo đồng minh rời nước Nhật, về cơ bản gần như tất cả các cải cách đưa ra vẫn được giữ nguyên và nó giúp mang đến một nước Nhật với trình độ phát triển cao, môi trường dân chủ, tự do, bình đẳng và cởi mở như hiện tại.





Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *