SAU MỘT CUỘC CHIẾN…

Rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý sau chiến tranh)

*Post Traumatic Stress Disorder (PTSD – Rối loạn căng thẳng hậu chấn thương tâm lý) là một người có trạng thái tinh thần trở nên bất thường (căng thẳng, lo âu, hoảng loạn,…) sau khi gặp phải hoặc chiến đấu với một khó khăn lớn. Những trải nghiệm này bao gồm các mối đe dọa đến tính mạng gây ra tổn thương nghiêm trọng về thể xác hoặc tinh thần. PTSD là chứng bệnh được phát hiện nhiều ở những người sống sót sau thảm họa Holocaust (bao gồm các cuộc chiến khác nhau trong lịch sử hiện đại, các cực đoan đỏ, chẳng hạn như Khmer Đỏ ở Campuchia), các cựu chiến binh và chủ yếu là cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam và các cựu chiến binh Iraq tại Hoa Kỳ,…

Nói cách khác, bệnh nhân PTSD thường sẽ cảm thấy rằng họ đã trở lại thời điểm khi chấn thương xảy ra, kèm theo các phản ứng sinh lý rất nghiêm trọng đối với căng thẳng, chẳng hạn như run tay, tim đập nhanh, mạch đập nhanh, đổ mồ hôi, lo sợ, v.v. Sẽ có những cơn ác mộng liên quan đến những sự kiện đau thương trong khi ngủ, hoặc những hồi tưởng về những đau thương sẽ thường xuyên xuất hiện trong não. Ngoài ra cách nhìn nhận thế giới và các giá trị quan cũng đã trải qua những biến đổi rất tiêu cực, họ sẽ cảm thấy thế giới không còn an toàn và hoặc cảm thấy tội lỗi, hối hận,… dần dần trở nên nóng nảy và tê liệt. Đây được gọi là sự thay đổi tiêu cực trong cảm xúc và nhận thức.

Sau khi một cuộc chiến kết thúc, sẽ có những chỉ huy tài ba, những anh hùng xuất chúng được ngợi ca, còn có cả những liệt sỹ quả cảm được nhắc đến với niềm tiếc thương vô hạn. Những người còn lại thì sao? Sau khi cởi bỏ quân phục, họ chỉ là những người vô danh bình thường, trở về từ cuộc chiến, có những người mang theo những thương tật vĩnh viễn. Có những người thể xác lành lặn nhưng lại mang trong mình những vết thương tâm lý nghiêm trọng không thể chữa lành, đã có những cái chết được lựa chọn như một cách giải thoát.

Các triệu chứng của PTSD đã được các nhà tâm lý học hoặc bác sĩ lâm sàng chú ý kể từ Thế chiến thứ I. Sau đó, những phản ứng và triệu chứng này chủ yếu được tìm thấy ở những người lính xuất ngũ sau Chiến tranh Việt Nam. Vào thời điểm đó, triệu chứng này không được gọi là PTSD, và tên được đặt cho nó là “sốc đạn pháo” hoặc “chứng rối loạn thần kinh trong chiến tranh”.

“Trong làn bom mù mịt, những thân thể còn sống, rách rưới, nát tươm đang lê lết, dẫm đạp lên nhau tháo chạy. Có người bị bom xé tan xác, máu và bùn quện lẫn vào nhau. Những kí ức đó chân thực và sống động chưa từng phai mờ trong tâm trí tôi”

Chiến trường thực sự đẫm máu và tàn khốc hơn rất nhiều so với những hình ảnh được thể hiện trong các tác phẩm điện ảnh và truyền hình, ngay cả khi một người lính bình thường đã trải qua hàng tháng hay nhiều năm huấn luyện quân sự, kỹ năng chiến đấu của anh ta có thể được nâng cao, nhưng phẩm chất tâm lý của anh ta không chắc có thể trở nên khác biệt so với một người bình thường. Chiến tranh là cuộc chiến sinh tử, cú sốc tâm lý mà những người lính phải đối mặt chỉ trong vài năm trên chiến trường còn lớn hơn nhiều so với trải nghiệm của đa số những người bình thường trong suốt một đời.

“Chiến tranh là một cuộc bạo sát khốn nạn, các người không thể tưởng tượng được đâu, bắn vào đầu những người già, cưỡng hiếp phụ nữ và trẻ em, tra tấn tù nhân, thậm chí đôi khi sử dụng thịt người làm bữa ăn cho những binh lính, chúng tôi đã gây ra vô số tội ác”

R.P là một lính Mỹ trở về từ chiến tranh Việt Nam đã có những biểu hiện khác thường về tâm lý, dễ dàng mất kiểm soát, mẫn cảm với âm thanh, mỗi khi nghe thấy tiếng xe anh ta lại ngồi sụp xuống, hai tay ôm lấy đầu run rẩy, thường xuyên mất ngủ, tinh thần suy sụp, những hồi ức về cuộc chiến tàn khốc hiện về trong mỗi cơn ác mộng. Anh ta thường mơ thấy những xác chết không đầu, những tiếng khóc ré của trẻ con. Đôi khi, anh ta tự cắt vào tay mình. Anh ta không thể ngủ được nếu không có một chiếc súng đặt dưới gối. Cuối cùng, anh ta đã dùng chính chiếc súng đó để giải thoát cho bản thân với một lời trăn trối duy nhất “Đã đến phải lúc trả giá”.

Sau chiến tranh, Hoa Kỳ đã có làn sóng phản đối việc trao trả binh lính chiến tranh tại Việt Nam, môi trường chiến đấu quá khốc liệt khiến những người lính trở về bị loại ra khỏi xã hội hoặc không thể hòa nhập vào xã hội, chính phủ đã không có những biện pháp kịp thời và hiệu quả để giải quyết vấn đề tâm lý của các cựu chiến binh.

Đại học California đã khoanh vùng nghiên cứu trong 15.000 binh sĩ trong một cuộc nội chiến và phát hiện ra rằng 85% binh sĩ mắc nhiều bệnh tâm lý khác nhau hoặc bị ám ảnh nghiêm trọng sau chiến tranh thậm chí mắc bệnh tâm thần, trầm cảm và tự sát.

Trước Chiến tranh Iraq, chỉ có 5% binh sĩ Mỹ có triệu chứng PTSD, sau chiến tranh, có tới 17% trong số 6.200 sĩ quan và binh sĩ có các triệu chứng của PTSD, trầm cảm hoặc rối loạn lo âu. Ở Iraq, tỷ lệ này là 4,5% đối với những binh sĩ chưa trải qua chiến đấu, 9,3% binh sĩ đã trải qua một hoặc hai trận chiến, 12,7% binh sĩ đã trải qua ba đến năm trận chiến và 19,3% số binh sĩ đã trải qua hơn năm trận chiến.

“Sau khi ba tôi trở về từ chiến trường, ông ấy điên cuồng uống rượu mỗi ngày, uống đến khi máu từ mũi chảy ra, uống đến khi gan đã hỏng cả, ông ấy vẫn tiếp tục uống. Tôi luôn tự hỏi, ông ấy không đau sao? hay còn vết thương nào khác lớn hơn cả thế?”

Trong số khoảng 2,3 triệu cựu quân nhân Hoa Kỳ đã tham gia các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, ít nhất có đến 20% người mắc phải PTSD.

“Trong nhà có một treo một tấm ảnh của một thiếu nữ đôi 17 tuổi mặc quân phục, nụ cười rạng rỡ bừng lên nhiệt huyết thanh xuân. Đó là bà cố, theo lời kể lại, năm 1951, trên chiến trường Triều Tiên, khi bị máy bay Mỹ dội bom, bà đã may mắn thoát chết, nhưng trái tim đã tan nát trong chiếc hố bom ngày ấy. Vì sau trận bom, thứ bà tìm thấy trong những hố bom là những thân xác không còn nguyên vẹn của đồng đội, chân và đầu của họ văng lên treo lơ lửng trên những cành cây cách xa đó. Sau khi trở về từ chiến trường, bà phải dành quãng đời còn lại trong bệnh viện tâm thần. Những kí ức kinh hoàng đó không hề phai mờ theo thời gian. Thậm chí đến giờ phút nhắm mắt xuôi tay, tâm can bà vẫn còn phải chịu sự dằn vặt, ám ảnh.”

Do đó, sau khi phải chịu đựng những chấn thương tâm lý trên chiến trường, tỷ lệ mắc bệnh tâm thần và tỷ lệ phạm tội của những người lính Mỹ về hưu đã tăng lên. Các cuộc điều tra cho thấy cứ 3 lính Mỹ trở về sau các chiến dịch ở nước ngoài thì có 1 người được chẩn đoán mắc chứng PTSD nặng. Trong năm 2014, đã có khoảng 7.400 cựu chiến binh tự sát, và trung bình có 22 người chọn cách kết liễu cuộc đời mình mỗi ngày. Ngoài ra, khoảng 140.000 người phải ngồi tù vì phạm tội. Rất khó khăn cho họ để từ một chiến trường sinh tử khốc liệt quay về sống cuộc sống của một người bình thường.

“Trong chiến tranh Iraq, lính Mỹ Jeans Cruise đã lập được công lớn khi bắt sống Saddam Hussein, nhiều người có thể nghĩ rằng những người có chiến công như vậy chắc chắn sẽ được trọng dụng, nhưng sau khi giải ngũ, anh đã không thể kiếm được một công việc vì bức ảnh chụp Saddam đã lan truyền khắp nước Mỹ, nhiều công ty nhân sự đã từ chối ông vì nghĩ rằng bàn tay ông đã nhuốm máu của những người dân đau khổ ở Iraq, và họ thấy ghê tởm điều đó”

Nghiên cứu cho thấy 2/3 cựu chiến binh phải đối mặt với những thách thức lớn hơn trong quá trình hòa nhập xã hội. 69% người nói rằng họ thiếu kỹ năng để kiếm sống. Khó khăn lớn nhất để tìm được một công việc phù hợp. 60% người cho rằng việc chuyển từ quân đội sang doanh nghiệp phải đối mặt với “trở ngại văn hoá”.

“Điều mà người ta muốn nói đến là một anh hùng giết giặc lập công, ai quan tâm đến tình trạng tâm lý của một quân nhân bình thường đã nghỉ hưu?”

Trong phân tích cuối cùng, việc không thấu hiểu, không quan tâm và không chú ý đến chấn thương tâm lý của các cựu binh là nguyên nhân sâu xa của những căn bệnh tâm lý của họ ngày nay.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *