Thứ năm, ngày 03/07/2025 19:00 GMT+7
Kiều Anh (tổng hợp) Thứ năm, ngày 03/07/2025 19:00 GMT+7
Không nghỉ dưỡng xa hoa mà ngủ nhà sàn, ăn cơm bếp củi và nghe những câu chuyện chỉ còn lưu truyền bằng… tiếng hát – điều gì đang diễn ra ở các tỉnh mới sau sáp nhập?
Từ ngày 1/7/2025, Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn mới với 34 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trong số 23 đơn vị hành chính mới hình thành sau quá trình sáp nhập tỉnh thành, nhiều địa phương không chỉ mở rộng về diện tích mà còn khẳng định chiều sâu bản sắc thông qua kho tàng văn hóa dân tộc đặc sắc. Dù tên gọi đã thay đổi, những giá trị truyền thống vẫn tiếp tục được bảo tồn trong đời sống thường nhật, như một “di sản sống” không ngừng tuần hoàn giữa hiện tại và quá khứ.
Chính tại những vùng đất này, du lịch không chỉ còn là hành trình khám phá cảnh quan, mà trở thành cơ hội trải nghiệm văn hóa từ bên trong – nơi du khách được sống cùng cộng đồng, ăn ở như người bản địa và chứng kiến những giá trị truyền thống vẫn hiện hữu trong đời sống thường ngày. Từ những ngôi nhà sàn vẫn đỏ lửa bếp mỗi chiều, đến tiếng khèn, điệu hát, nghi lễ canh tác hay lễ hội dân gian được cộng đồng duy trì không vì trình diễn, mà vì niềm tin sâu sắc vào tổ tiên – tất cả tạo nên sức hút khó thay thế cho loại hình du lịch cộng đồng.
Nhiều tín đồ xê dịch không còn tìm đến những khu nghỉ dưỡng đồng loạt, mà chủ động bước vào đời sống thực tế của người địa phương để học hỏi, thấu cảm và sẻ chia. Dưới đây là 5 tỉnh thành mới sau sáp nhập rất thích hợp để phát triển hoặc đã có nền tảng mạnh về du lịch cộng đồng gắn với văn hóa bản địa.
Sáp nhập tỉnh thành: Tỉnh Tuyên Quang mới trở thành điểm sáng của loại hình du lịch cộng đồng mang bản sắc riêng biệt

Tỉnh Tuyên Quang mới (sáp nhập Tuyên Quang và Hà Giang) chính thức đi vào vận hành, với tổng diện tích 13.795,5 km² và dân số gần 1,87 triệu người. Trong bối cảnh toàn ngành đang tìm kiếm hướng đi bền vững, việc đặt trọng tâm vào du lịch cộng đồng – phát triển từ chính đời sống văn hóa bản địa, đang cho thấy hiệu quả rõ rệt tại địa phương này. Với các dân tộc tiêu biểu như Mông, Tày, Dao, Pà Thẻn sinh sống lâu đời, Tuyên Quang mới sở hữu kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú và nguyên bản.
Tại Na Hang, Lâm Bình, mô hình du lịch cộng đồng đang vận hành dựa vào những giá trị có sẵn trong sinh hoạt của người Tày, Dao, Mông. Du khách đến không chỉ để ở lại, mà để tham gia vào đời sống thường nhật của người dân: cùng đi rẫy, nấu ăn, nghe hát Then, học dệt thổ cẩm. Các homestay không chạy theo tiêu chuẩn hóa mà giữ nguyên cấu trúc truyền thống: nhà sàn, bếp củi, bữa cơm chung.

Ở phía cực Bắc, các làng du lịch như Pả Vi Hạ (xã Mèo Vạc), Nặm Đăm (xã Quản Bạ), Lô Lô Chải (xã Lũng Cú) hay làng cổ tại xã Phố Bảng, tiếp tục là điểm đến được ưa chuộng nhờ gìn giữ nguyên vẹn văn hóa dân tộc. Cư dân địa phương chủ yếu là người Mông, Dao, Lô Lô, sau khi được tập huấn nghiệp vụ du lịch, vẫn kiên định bảo tồn nhà trình tường, lễ hội truyền thống, ngôn ngữ và cả trang phục thổ cẩm như cách họ đã làm bao đời nay: từ nhà trình tường, trang phục, đến lễ hội và ngôn ngữ.
Các “mảnh ghép bản sắc” khi được liên kết hợp lý sẽ hình thành nên một cực tăng trưởng mới cho du lịch miền núi phía Bắc. Thay vì chạy theo các dự án hạ tầng quy mô lớn, Tuyên Quang mới đang chọn cách đầu tư vào con người: đào tạo kỹ năng, cải thiện dịch vụ tại chỗ, tổ chức tour chuyên đề và nâng cao năng lực truyền thông. Du lịch ở đây không đến từ bên ngoài, mà khởi nguồn từ cộng đồng – nơi người dân vừa là chủ thể, vừa là người kể lại câu chuyện văn hóa của chính mình.
Sáp nhập tỉnh thành: Tỉnh Lào Cai mới – người dân vừa là chủ thể phục vụ, vừa là người giữ gìn hồn cốt văn hóa

Tỉnh Lào Cai mới – hình thành trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái có tổng diện tích 13.256,92km² và dân số gần 1,78 triệu người.
Không chỉ được biết đến với địa hình núi non kỳ vĩ, nơi đây còn là không gian văn hóa đa tầng của 25 dân tộc cùng sinh sống, trong đó nổi bật là các cộng đồng người Mông, Dao, Tày, Thái, Giáy, Hà Nhì, Nùng. Nhiều nhóm Dao vẫn còn sử dụng chữ Nôm Dao trong sách cúng, truyện kể; người Hà Nhì gìn giữ hoa văn thêu tay dày đặc trên áo chẽn; người Mông tiếp tục truyền lại kỹ thuật vẽ sáp ong, nhuộm chàm, làm lanh qua từng thế hệ phụ nữ.
Ở Tả Van, người Giáy giữ vai trò “chủ nhà” trong các mô hình homestay có chiều sâu. Không gian sống sạch sẽ, gần gũi, món ăn chế biến từ thực phẩm vườn nhà, thổ cẩm làm thủ công và sự thân thiện trong giao tiếp khiến du khách cảm nhận được sự kết nối chân thực. Những căn nhà treo lưng núi hình cánh cung, ôm trọn dòng suối Mường Hoa, không chỉ là kiến trúc truyền thống mà còn là một phần linh hồn của làng.
Người Mông và Dao đỏ – hai cộng đồng chiếm đa số ở vùng cao phường Sa Pa, xã Bát Xát, xã Văn Chấn đang giữ gìn nghiêm ngặt các lễ nghi truyền thống. Lễ hội Gầu Tào tổ chức vào tháng Giêng mang ý nghĩa cầu sức khỏe và may mắn; du khách được hòa mình vào những trò chơi dân gian như ném pao, đánh tu lu, hát đối. Cuối năm, lễ Nhảy lửa của người Dao đỏ diễn ra trong không khí linh thiêng – nơi những bước chân trần vượt qua đống than hồng không chỉ là nghi lễ, mà còn là tuyên ngôn về niềm tin văn hóa được truyền nối.

Tại Yên Bái (cũ) các nghệ thuật dân gian như khèn Mông ở xã Hạnh Phúc, xã Mù Cang Chải đang được bảo tồn theo cả hai hướng: sống động trong cộng đồng và hiện diện tại các sự kiện du lịch đặc trưng. Các không gian văn hóa bản địa như Suối Giàng – vùng trà cổ hơn trăm năm tuổi của người Mông được quy hoạch trở thành hệ sinh thái văn hóa – nông nghiệp – nghỉ dưỡng.
Ở vùng sâu như xã Bát Xát, các mô hình đội văn nghệ người Hà Nhì, Mông, các tour trải nghiệm ruộng bậc thang, chinh phục núi cao như Nhìu Cồ San, Lảo Thẩn… đều do người bản địa làm chủ. Du khách đến không chỉ để leo núi, mà để ăn ngủ tại nhà dân, nghe chuyện bản, học cách đan lát, dệt lanh – sống như một thành viên thực thụ của cộng đồng.
Sáp nhập tỉnh thành: Tỉnh Thái Nguyên mới – mô hình du lịch cộng đồng dựa trên văn hóa bản địa đang trở thành xu hướng

Tỉnh Thái Nguyên mới – hình thành từ sự sáp nhập giữa hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn có diện tích 8.375,21km², dân số gần 1,8 triệu người.
Trên nền tảng tài nguyên văn hóa đậm đà, nơi đây đang nổi lên như một trong những điểm đến giàu tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng bền vững, dựa vào chính đời sống và bản sắc các dân tộc thiểu số sinh sống lâu đời trong khu vực.
Từ xã Võ Nhai, xã Định Hóa, xã Cao Minh, hình thái du lịch “vì cộng đồng – từ cộng đồng” đang định hình rõ nét. Những nếp nhà sàn nép bên sườn núi, tiếng đàn tính, điệu hát Then hay sắc váy thổ cẩm của người Tày, Nùng, Dao không còn là chất liệu hoài niệm, mà đã trở thành phần sống động của trải nghiệm du lịch hiện đại.
Du khách ngủ lại nhà dân, thưởng thức bữa cơm cùng chủ nhà, nghe kể chuyện về lễ hội Lồng Tồng hay những tập tục gắn với tín ngưỡng nông nghiệp vùng trung du. Những thầy Then – người giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh người Tày, vẫn đang tổ chức nghi lễ cầu an, giải hạn với đàn tính và điệu múa cổ truyền.

Ở Bắc Kạn (cũ) cộng đồng người Tày tại các làng du lịch như Pác Ngòi, Bó Lù, Cốc Tộc (Ba Bể) đã hình thành hệ sinh thái đón khách dựa vào văn hóa bản địa: từ nhà sàn truyền thống, nghề đan lát, làm nhạc cụ dân tộc, đến các sản phẩm OCOP như rượu men lá, bánh trứng kiến, khẩu sli…
Với hơn 45 dân tộc thiểu số đang sinh sống – trong đó đông nhất là Tày, Nùng, Dao, Sán Chay, Thái Nguyên mới có điều kiện lý tưởng để xây dựng chiến lược du lịch gắn với bảo tồn văn hóa. Các sản phẩm đặc trưng như hát Then, múa khèn, nghi lễ cấp sắc, cùng hệ thống di sản ngôn ngữ – chữ viết (như Nôm Tày) không chỉ mang giá trị nghệ thuật, mà còn là nguồn lực mềm thúc đẩy kinh tế văn hóa địa phương.
Sáp nhập tỉnh thành: Tỉnh Quảng Ngãi mới – vùng đất giao thoa hiếm có giữa cao nguyên – rừng nguyên sinh – suối thác – biển đảo, cùng nền văn hóa lâu đời của các cộng đồng dân tộc thiểu số

Tỉnh Quảng Ngãi mới – hình thành từ việc sáp nhập Kon Tum và Quảng Ngãi có diện tích hơn 14.800km² và dân số trên 2,16 triệu người.
Sự hợp nhất này tạo ra một vùng đất giao thoa hiếm có với nền văn hóa lâu đời của các cộng đồng dân tộc thiểu số như Ba Na, Xơ Đăng, H’rê, Giẻ Triêng, cùng nhiều nhóm cư dân tại chỗ khác.
Với các biểu hiện văn hóa bản địa nguyên gốc, vùng đất này sở hữu nhà rông – không gian sinh hoạt cộng đồng đặc trưng, nơi tổ chức lễ hội, lưu giữ sử thi và truyền khẩu dân gian. Những lễ hội mùa vụ như mừng lúa mới, lễ bỏ mả hay nghi lễ cúng Yàng với tiếng cồng chiêng Tây Nguyên và điệu xoang vẫn còn hiện diện rõ nét ở các làng bản người Ba Na, Xơ Đăng, H’rê.

Tại xã Ba Tơ, mô hình du lịch cộng đồng đang được xây dựng dựa trên nền tảng văn hóa H’rê còn nguyên vẹn: từ nhà sàn, dệt thổ cẩm, ẩm thực địa phương đến nghệ thuật kể sử thi, biểu diễn cồng chiêng. Các làng như Tài Năng, Kon Dốc, làng Teng đã bắt đầu đón khách trải nghiệm, từng bước hình thành chuỗi sản phẩm gắn với văn hóa – sinh thái – lịch sử.
Phía Tây tỉnh là vùng Kon Tum cũ, nơi hội tụ văn hóa của 43 dân tộc anh em, trong đó có 7 dân tộc thiểu số tại chỗ như Xơ Đăng, Ba Na, Gia Rai, Rơ Măm, Brâu,… tạo nên kho tàng di sản đa dạng bậc nhất Tây Nguyên. Măng Đen, điểm đến hút tới 80% khách du lịch, không chỉ nổi tiếng bởi khí hậu và cảnh sắc, mà còn là nơi trải nghiệm đời sống của các cộng đồng bản địa qua những nghi lễ phục dựng như lễ ăn than, lễ mở kho lúa, lễ mừng nước giọt…
Những làng du lịch cộng đồng như Vi Rơ Ngheo (Xơ Đăng) hay làng Lê Văng đang cho thấy hướng đi hiệu quả: người dân làm du lịch từ chính văn hóa của mình, vừa bảo tồn di sản, vừa tạo sinh kế. Việc kết nối giữa các làng du lịch cộng đồng ở Kon Tum và vùng đồng bào H’rê – Cor ở Quảng Ngãi đang được thúc đẩy, mở rộng không gian trải nghiệm theo trục rừng – thác – biển.
Sáp nhập tỉnh thành: Tỉnh Vĩnh Long mới đánh thức di sản Khmer trên vùng đất giữa dòng Cửu Long

Tỉnh Vĩnh Long mới (sáp nhập Vĩnh Long, Trà Vinh và Bến Tre) có diện tích hơn 6.296km² và dân số xấp xỉ 4,26 triệu người.
Trong đó, cộng đồng người Khmer chiếm tỷ lệ đáng kể, tập trung tại khu vực Trà Vinh và Trà Ôn (Vĩnh Long), góp phần tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng cho toàn vùng. Văn hóa Khmer là một trong những di sản tiêu biểu, được thể hiện rõ nét qua hệ thống chùa Khmer – nơi vừa là trung tâm tín ngưỡng, vừa là học đường lưu giữ chữ viết, tiếng nói và nghệ thuật dân gian truyền thống. Với hơn 40 chùa được công nhận là di tích, kiến trúc Khmer hiện diện sinh động trong đời sống cư dân, từ mái chùa cong vút, phù điêu trang trí rực rỡ đến các pho tượng mang đậm tinh thần Phật giáo Nam tông.

Hàng năm, các lễ hội lớn như Ok Om Bok, Sen Đôn Ta, Chol Chnam Thmay diễn ra sôi động khắp các phum sóc. Trong đó, lễ hội đua ghe ngo gắn với lễ cúng trăng không chỉ là hoạt động tâm linh, mà đã trở thành sự kiện văn hóa – thể thao thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Người Khmer nơi đây vẫn duy trì múa Rom Vong, Lâm Thol, nghệ thuật Chầm riêng Chà Pây và Rô-băm, đều đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Song hành với yếu tố văn hóa là ẩm thực Khmer đặc trưng: từ cốm dẹp, bánh gừng, rượu thốt nốt đến các món chay thanh đạm, món mặn đậm đà vị miền Tây, tạo nên bản sắc ẩm thực khó lẫn, góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch văn hóa – cộng đồng.
Hiện nay, tại Trà Vinh, mô hình Làng Văn hóa Du lịch Khmer đã hình thành chuỗi trải nghiệm gắn với Ao Bà Om – chùa Âng – Bảo tàng Văn hóa Khmer. Du khách đến đây có thể xem múa trống Chhay Dăm, nghe nhạc ngũ âm, học điêu khắc mặt nạ, thưởng thức ẩm thực và tìm hiểu nghề thủ công mỹ nghệ.