#quansu
QUÂN SỰ NGƯỜI SARMATIA
Người Sarmatia là 1 khối liên minh các bộ tộc sống du mục nói ngôn ngữ thuộc nhóm Iran ở phía tây lãnh thổ của người Scythia trên vùng thảo nguyên Biển Đen từ khoảng thế kỷ 4 và thế kỷ thứ 5 TCN cho tới khoảng thế kỷ 3 – 4 khi các thế lực người Goth và người Hung lần lượt đánh bại người Sarmatia (chủ yếu là khối bộ lạc Alan) đang cư trú ở lưu vực sông Đông, khiến cho liên minh Sarmatia bị phân rã thành 2 nhánh với 1 nhánh chạy về phía tây gia nhập cuộc nhập thổ La Mã của các bộ tộc người German trong khi nhánh còn lãi thì rút dần về phía đông đến vùng núi Caucasus để rồi hình thành nên vương quốc Alan sau này cũng như tộc người Ossestia về sau
Liên minh Sarmatia gồm rất nhiều bộ lạc sống lẻ tẻ trên vùng thảo nguyên biển Đen rộng lớn như Iazyges, Taifal Aorsi, Sirace, Spali …mà trong đó các bộ lạc mạnh có thể kể đến là dân Roxolani và nhất là tộc Alan a.k.a Alani
Thế kỷ thứ 7 TCN, dân du mục nói ngữ hệ Iran đã tràn ngập khắp 1 dải Đại thảo nguyên Á Âu rộng lớn trải dài từ thảo nguyên biển Đen ở phía Tây tới vùng thảo nguyên Hà Sáo tại khúc ngoặt trên vùng thượng lưu của sông Hoàng Hà ở phía đông với rất nhiều bộ lạc du mục lớn nhỏ hùng mạnh khác nhau như Scythia, Nguyệt Chi, Tắc (Yancai, Saka)…
Nếu như ở phía Đông người Nguyệt Chi từng 1 thời chiếm lĩnh vùng Đôn Hoàng và dãy Thiên Sơn để rồi sau đó bị kỵ binh Hung Nô do Mặc Đốn Thiền vu cùng Ô Tôn dồn ép họ phải di cư về phía tây vào sống trên khu vực Đại Hạ (Bactria) thuộc Afghanistan ngày nay để rồi sau đó họ tràn vào Ấn Độ kiến lập nên đế quốc Quý Sương thì trên đường tây thiên, dân Nguyệt Chi cũng đã đánh bại luôn 1 bộ tộc du mục khác được cho là có thể có quan hệ với 1 trong các bộ lạc nhánh của Sarmatia – dân Alan hoặc cũng chính là dân bộ này là người Tắc (Saka) vốn ban đầu cư trú trên vùng thung lũng sông Y Lê và sông Sở thuộc Kazakhstan và Kyrgyzstan ngày nay cũng như là hàng xóm phía tây của Nguyệt Chi và đẩy họ đi xa hơn về phía tây
Trong lúc này thì vùng thảo nguyên xung quanh Biển Đen đang do các bộ tộc Scythia chiếm lĩnh
Tới thế kỷ thứ 1 CN thì người Alan ở vùng Trung Á bắt đầu nổi lên và thiên di về tây tới lưu vực sông Đông từ vùng cư trú ở khoảng khu vực từ Azov tới phía đông bắc biển Caspia sau khi họ đã nhiều lần xâm nhập, giao tranh và đánh bại dân Parthia
Cùng với sự nổi lên và thiên di của dân Alan thì trong khối bộ lạc Sarmatia còn có bộ tộc du mục Roxolani vốn ban đầu cư trú trên vùng thảo nguyên các sông Volga, Don, Dnipper cũng thiên di tới vùng thảo nguyên Baragan sông Danube ở phía đông lãnh thổ Romania và phát sinh nhiều trận giao tranh với quân đồn trú biên giới của La Mã
Với sự thiên di vào chiếm lĩnh vùng thảo nguyên của các bộ lạc Sarmatia thì dân Scythia xưa dần bị đẩy lùi tới co cụm trong tại các lãnh thổ rải rác ở Đại Scyrthia và Tiểu Scytrhia cho tới khi họ hoàn toàn tiêu vong vào thế kỷ thứ 3
Cùng với việc chiếm lĩnh thảo nguyên biển Đen thì các chiến binh Sarmatia cũng nhiều lần góp mặt trong các cuộc chiến của người Germani với người La Mã
Người Sarmatia theo các nguồn miêu tả của thầy thuốc La Mã Galen cũng như sử gia La Mã là Ammianus Marcellinus có tóc hung đỏ trong khi tộc nhân tộc Alan thì có vóc dáng cao to với mái tóc hơi vàng cùng đôi mắt dữ tợn
Về sau thì cùng với việc người La Mã mở cửa cho các tộc Germanic vào ngụ cư trong lãnh thổ để đổi lấy việc phục vụ quân ngũ của họ thì dân Sarmatia cũng thuộc diện nằm trong danh sách này
Khoảng cuối thế kỷ thứ 3, 1 thế lực mới từ khu vực biển Baltic ở phía Bắc tràn xuống là người Goth đã đánh bại các bộ lạc Sarmatia ở khu vực phía tây trên vùng Ukraine và theo sử gia Đông La Mã gốc Goth là Jordanes thì những người Goth sau khi chiếm lĩnh được khu vực này đã thành lập nên xứ sở Oium và phân thành 2 nhánh chính là Thervingii ở phía Tây và Greuthungi ở phía đông để rồi sau này phát triển thành 2 nhóm Visigoth và Ostrogoth trong khi bộ phận dân Sarmatia thuộc nhóm Alan còn lại vẫn tiếp tục tồn tại ở vùng thảo nguyên sông Đông mãi cho tới khi có sự xuất hiện của người Hung
Sinh sống trên vùng thảo nguyên rộng lớn nên người Sarmatia là những kỵ sĩ nguy hiểm
Về trận mạc thì trang bị ban đầu của các kỵ sỹ Sarmatia cũng tương tự các dân tộc du mục khác như người Scythia
Quân số người Sarmatia tùy thuộc vào quy mô bộ lạc như bộ lạc Sirace trong lần hỗ trợ vua Parnaces Đệ Nhị xứ Pontus đã điều bát 20,000 kỵ binh trong Strabo thì cho rằng tổng quân bộ Aorsi có thể gom được thì có thể lên tới 200,000 kỵ binh…
Ngoài ra theo thư tịch Trung Hoa thì vùng thảo nguyên Lý Hải (biển Caspia) có thể dung được tới hơn 100,000 kỵ sỹ Saka
Bạn đường quan trọng cũng như là thứ bất ly thân đưa người Sarmatia trở thành các chiến binh đáng gờm không thể không kể đến các chiến mã của người Sarmatia là những chiến mã có vóc dáng tương đối nhỏ, khó điều khiển song lại phi rất nhanh
Ngựa được dùng cho việc cưỡi và trận mạc thường bị bị người Sarmatia thiến trước để giúp cho việc kiểm soát chúng diễn ra tốt hơn
Khi phải hành quân đường trường không ngừng nghỉ thì các chiến binh Sarmatia thường mang theo ngựa dự phòng, ít nhất là 1-2 chiến mã để thay thế nhằm vừa đảm bảo tốc độ hành quân song cũng vừa để dưỡng sức ngựa để sử dụng khi ra tới chiến trường
Với việc mang theo nhiều ngựa để thay thế thì các chiến binh Sarmatia có thể hành quân tới 50 dặm (80,47 cây số) trong vòng 1 ngày
Theo Strabo thì ban đầu các chiến binh Sarmatia cũng trang bị cung để đánh tầm xa với thương và kiếm để dùng khi cận chiến cũng như mang khiên đan và vận giáp ngực cũng như đội mũ trụ được làm từ các lớp da bò dày song với việc trang bị nhẹ như vậy khiến họ không phải là đối thủ của các đội hình phương trận phalanx của người Hy Lạp và tại trận chiến giành quyền kiểm soát vùng Crimea vào khoảng năm 100 TCN thì lực lượng 50,000 chiến binh Roxolani đã bị 6000 chiến binh Hy Lạp đánh cho tan tác khiến cho người Sarmatia về sau phải chuyển sang áp dụng mô hình thiết kỵ trang bị giáp trụ tận răng
Vũ khí của chiến binh Sarmatia gồm có cung tên, dây thòng lọng, trường kiếm dùng để chém cũng như là trường thương kontos cầm bằng 2 tay với cán bằng gỗ thông có chiều dài cao quá vai và đầu chiến mã Sarmatia
Ngoài các vũ khí trên thì khi nhập trận người Sarmatia cũng mang theo cả chiến kỳ Draco hình rồng hoặc rắn gồm cái đầu bằng ống kim loại rỗng được gắn với phần đuôi nheo được bằng vải có màu sáng mà khi mang ra trận thì gió thổi qua phần đầu ống sẽ làm phất phới phần hiệu kỳ đuôi nheo bằng vải gắn ở phía sau tương tự như mấy cái ống gió ngày nay
Về sau thì quân đội La Mã cũng du nhập các loại kỳ hiệu loại ống gió kiểu này
Về giáp trụ thì các chiến binh Sarmatia về sau đã chuyển sang sử dụng bộ giáp trụ tay dài nặng nề hơn song cũng cứng cáp hơn để bảo vệ trước các cú đâm chém cũng như gia tăng thêm trọng lượng húc khi họ xung sát hàng ngũ kẻ thù gồm mũ trụ kim loại hình nón với bộ giáp trụ dài dạng vảy được làm bằng các mảnh móng ngựa cứng xâu lại với nhau bằng dây gân chắc hoặc là được khâu thẳng vào phần da bò
Theo miêu tả của những người cùng thời như nhà du hành kiêm nhà địa lý người Hy Lạp Pausanias khi chiêm ngưỡng 1 bộ giáp loại này tại đền thờ Aesculapius tại Athen đã nhận xét bộ giáp giống giáp bò sát với mang kiểu dáng của các mảnh giáp giống như các nón thông khép vào nhau cũng như đủ cứng và chắc để chống lại các đường tên đạn tại trận địa
Bên cạnh móng ngựa thì chất liệu làm vảy giáp của kỵ sỹ Sarmatia cũng theo sử gia kiêm binh sỹ La Mã vào thế kỷ thứ 4 là Ammianus Marcellinus thì người Sarmatia thuộc bộ lạc Alani sử dụng giáp trụ được ghép từ các mảnh sừng đã được làm nhẵn và đánh bóng cũng như các vảy này sau đó được khâu lên áo vải lanh và loại giáp vảy bằng sừng này đã được dân Alan sử dụng tới tận thế kỷ thứ 4
Nếu như dân bộ Alan sử dụng giáp vảy bằng sừng thì một số chiến binh Sarmatia thậm chí còn tiến xa hơn khi sử dụng cả các loại vảy giáp nhỏ bằng đồng hoặc sắt được cố định bằng đinh lên bề mặt y phục bằng da hoặc là khâu thẳng lên bộ y phục nặng nề của họ như sử gia La Mã Cornelius Tacitus đã miêu tả về các việc thủ lĩnh và các chiến binh quý tộc bộ lạc Roxolani của người Sarmatia mặc các bộ giáp vảy sắt và da cứng giúp họ có thể kháng lại các đòn tấn công của kẻ thù tại trận song cũng mang lại bất lợi khi gây khó khăn cho những người mang nó trong việc phải đứng dậy trên mặt đất một khi đã bị té khỏi ngựa
Bên cạnh giáp cho kỵ sỹ thì người Sarmatia cũng trang bị giáp bọc cho chiến mã của mình như những hình đã được khắc trên Cột Khải hoàn ghi lại chiến công của hoàng đế Trajan của La Mã
Với trang bị như thế thì hàng trận kẻ thù nhất là các binh đoàn Lê Dương hạng nặng của La Mã sẽ khó mà trụ vững nếu phải đương đầu trực diện đòn xung sát từ thiết kỵ Sarmatia bọc giáp người ngựa cũng như trang bị thương dài trên địa hình trống trải
Bên cạnh tham gia trực tiếp trong các cuộc chiến hay đột kích vào các lãnh thổ La Mã thì người Sarmatia cũng thường góp mặt trong đội hình lính kỵ binh đánh thuê của các quốc gia trong vùng
Sau khi bị người Goth đánh bại các nhóm bộ lạc Sarmatia ở phía tây vào cuối thế kỷ thứ 3 thì người Sarmatia thuộc bộ Alan vẫn còn tiếp tục tồn tại ở phía đông trên vùng sông Đông cho tới khi bị vua Balamber người Hung tràn qua đánh bại và thu nạp dân Sarmatia
Với lực lượng kỵ binh Sarmatia mới bổ sung, người Hung sau đó tây tiến lần lượt đánh bại người Goth và các tộc Germanic ở phía tây
Tuy vậy thì 1 bộ phận dân Alan với 2 nhóm do các thủ lĩnh Goar và Respendial không chịu khuất phục dân Hung đã tây tiến vào các lãnh thổ người La Mã và nhập đội hình với các nhóm Asding và Silingi của người Vandal để rồi cùng với dân Suebi cùng vượt biên giới sông Rhine để tiến vào đánh phá xứ Gaul của La Mã; sự kiện này được 1 số người cho là diễn ra vào ngày cuối cùng của năm 406 – ngày 31 tháng 12 năm 406
Sự kiện các chiến đoàn đa sắc tộc cùng vượt sông Rhine để vào Gaul đã gây ảnh hưởng đến người La Mã buộc họ phải rút sạch các binh đoàn trên đảo Anh về đối phó (việc bỏ ngỏ đảo Anh đã mở rộng cửa cho người Anglo – Saxon từ ven Bắc Hải kéo qua làm loạn)
Về phần dân rợ thì các nhóm này sau khi xâm nhập được vào Gaul đã mặc sức tung hoành đánh phá để rồi tới ngày 20 tháng 6 năm 451 trước sự đe dọa của vó ngựa kỵ binh Hung do Attila dẫn dắt cùng chư hầu các tộc German dưới trướng thì các bộ tộc rợ bao gồm cả người Alan do thủ lĩnh Sangiban dẫn dắt đã tập hợp lại dưới ngọn chiến kỳ của “Người La Mã Cuối Cùng” là tướng Flavius Aetius để cùng tác chiến tại trận chiến đa sắc tộc tại cánh đồng Catalaunia
Tuy là người Alan do Sangiban lãnh đạo ngả về phe liên quân Tây La Mã và Visigoth song do sự tồn tại của 1 bộ phận tộc nhân trong quân đội người Hung nên không tránh khỏi việc dân Sarmatia Alan bị người Tây La Mã nghi ngờ lòng trung thành, đặt họ nằm ở giữa đội hình, kẹp giữa người La Mã bên trái, Visigoth bên phải và trước mặt là trung quân Hung do chính Attila chỉ huy
Liên quân Tây La Mã – Visigoth – Alan sau đó đã ác chiến với các lực lượng người Hung củng đồng minh để rồi giành phần thắng chung cuộc tại mặt trận Chalon
Nhóm Alan ở Tây Âu này sau chiến thắng tại Chalon đã theo chân các chiến đàon người Visigoth và Vandal vào bán đảo Iberia định cư và xứ riêng của họ tại Lusitania và Carthagenesis cho tới khi vua Attaces bị người Visigoth đánh bại và giết chết vào khoảng anm8 418 hoặc 426 để rồi các thần dân Alan của nhóm này sau đó phần lớn quy phục và theo chân người Vandal sang thành lập quốc gia Vandal trên vùng Bắc Phi để rồi sau này Đông La Mã a.k.a Byzantine kéo sang tiêu diệt hoàn toàn vào năm 534
Trong khi đó thì dân Alan ở lại đất cũ chấp nhận quy phục người Hung thì họ đã sống và sát cánh cùng với các ông chủ người Hung cho tới khi đế quốc người Hung binh bại và sụp đổ tại trận chiến Nedao vào 454 mà theo sử gia Jordanes thì người Alan đã chiến đấu bằng những cây cung của họ
Sau khi thế lực người Hung bị sụp đổ thì các thế lực chư hầu của dân Hung (chủ yếu là dân German) được giải phóng, tự thân ai nấy lo và người Alan phía đông này đã nắm lấy cơhội khi họ dời tới vùng Bắc Caucasus và Circassia để thành lập nên vương quốc Alania với kinh đô đóng ở Maghas (Maas) và tồn tại tới khoảng năm 1238-1239, cùng tranh hùng với các sắc dân thảo nguyên khác như Bulgar, Khazar, Gokturk… cho tới khi binh bại trước vó ngựa Mông Cổ
Dân Alan sau khi vong quốc trước người Mông cổ không hề biến mất mà vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển qua thời gian để đến ngày nay họ trở thành dân tộc Ossestia hiện đại sống trong lãnh thổ Liên bang Nga với lãnh thổ chính của người Ossestia chính là nước cộng hòa Bắc Ossestia – Alania