Có lẽ trong lịch sử thế giới hiếm có ông vua nào như Peter Đại đế. Ông là con người cởi mở, cầu thị, không nặng nề về nghi lễ. Ông sớm nhìn ra những hạn chế, yếu kém của nước Nga thời bấy giờ, nên quyết tâm cải cách. Nhưng bắt đầu từ đâu? Không dễ dàng, người Nga vốn bảo thủ, tự cho mình là văn minh nhất thế giới nên họ tự mãn với cái tầm nhìn hạn hẹp của họ. Nếu không có Peter quyết tâm cải cách thì có lẽ nước Nga cũng giống nhà Thanh bên Trung hoa sau này, cúi đầu để cho các liệt cường xâm chiếm. Cũng chỉ vì cái tâm lý tự mãn cá nhân cái gì cũng cho mình là nhất.
Bối cảnh nước Nga ở thế kỉ 17:
Chính trị
Trong điện Kremlin có 2 chủ nhân. Sa hoàng thuộc Vương quyền và Giáo chủ chính thống giáo thuộc thần quyền.
Sa hoàng nước Nga vào đầu thế kỷ 17 mang những nét giống Hoàng đế Trung hoa hơn là các Hoàng đế ở châu Âu. Ngay từ nhỏ, mọi người dân Nga đều được giáo dục rằng Sa hoàng gần như Thượng đế. Người Nga có những thành ngữ như:
“Chỉ có Thượng đế và Sa hoàng mới biết”, “Mặt trời soi sáng thiên đường, Sa hoàng soi sáng trần gian”,…
Sa hoàng được coi là cha của dân tộc Nga. Ông nói với thần dân như nói với con cháu của mình. Người Nga cho rằng quyền lực của Sa hoàng là không có giới hạn. Khi Sa hoàng ra lệnh người dân phục tùng tuyệt đối không thắc mắc. Họ tuân phục Sa hoàng như nô lệ tuân phục chủ nhân của mình vậy. Ngay cả giới quý tộc, khi được diện kiến phải quỳ trước Sa hoàng, trán phải chạm xuống đất. Khi tâu lên Sa hoàng điều gì, thần dân phải tấu đủ tên họ, chức danh địa vị chính thức của Sa hoàng nước Nga. Thiếu 1 chữ cũng bị coi như phạm thượng và có thể bị chém đầu.
Hàng ngày Sa hoàng thức dậy từ lúc 4h sáng. Đọc sách khoảng nửa tiếng. Đi vấn an Hoàng hậu rồi cùng hoàng hậu đi đến nhà nguyện nghe giáo sĩ giảng đạo. Sau khi nghe giảng đạo xong, Ngài ra ngoài nghe các boyar (là tước hiệu cao cấp nhất trong tầng lớp quý tộc của Nga) báo cáo tình hình rồi tất cả lại tham gia cầu kinh đến tận bữa ăn trưa. Ăn trưa Sa hoàng ngồi một mình trên bục cao, các boyar ngồi ăn ở các bạn thấp hơn. Sau bữa ăn Sa hoàng ngủ rồi lại vào cầu kinh và làm các nghi lễ tôn giáo khác. Cho đến bữa ăn tối. Bữa ăn tối thường có bạn hữu của ngài. Họ có thể cùng nhau uống rượu có thể là tới khuya. Xem qua một ngày làm việc của Sa hoàng ta thấy toàn hành lễ với nghe giảng đạo rồi cầu kinh là chính. Chứ thờ gian làm việc rất ít, như vậy nên nước Nga suy thoái, tụt hậu cũng không phải khó hiểu.
Việc học hành của Hoàng thái tử cũng khác. Nếu như Thái tử Trung hoa chỉ học mỗi sách tứ thư ngũ kinh, các bài văn, bài phú thì Thái tử của Nga lại phải học Kinh thánh là chính. Nhưng họ lại được học địa lý, lịch sử và các môn khoa học khác nữa mặc dù còn rất hạn hẹp
Dưới quyền của Sa hoàng là giới quý tộc chia ra khoảng 12 cấp bậc. Cao nhất là boyar. Thấp hơn là trung lưu, dưới cùng là nông nô, nông dân, tá điền… Sa hoàng có khoảng 30-40 cơ quan khác nhau để thực hiện việc công của Triều đình. Các cơ quan này hoạt động kém hiệu quả, gây nhiều thất thoát, chồng chéo lẫn nhau khó kiểm soát và lũng loạn.
Nước Nga vào TK 17 đã là quốc gia rộng nhất thế giới. Nhưng do họ nằm quá xa giữa Đông và Tây nên khó hấp thu được những tinh hoa, tiến bộ của cả hai khu vực này. Muốn phát triển cũng khó, phát triển về phía đông thì quá xa và phải vượt qua vùng Siberia lạnh cóng, đi lại khó khăn và có có đi thì cũng gặp phải đất của triều đình Mãn Thanh chặn lại nên không phát triển được về đường này. Sang phía tây, lúc đó Thụy điển rất mạnh, được mệnh danh là “Bà chúa vùng Baltik” ngăn chặn ngõ ra Tây Âu của Nga qua ngả biển Baltik. Dưới một chút là Ba lan theo Thiên Chúa giáo luôn thù địch với Nga theo Chính thống giáo. Lui xuống phía Nam mảnh đất mầu mỡ nằm ở lưu vực sông Dniepr là nơi dân Tatar ( vốn có thù hằn sâu đậm với dân Nga) và dân hiếu chiến là Cossack sinh sống. Phía nam nước Nga, vùng biển đen thì có đế quốc Ottoman hùng mạnh chặn lại. Vậy là Nga hết đường ra biển, hết đường giao lưu với văn hóa phương Tây. Nói đúng hơn là có, nhưng mỗi lần đi qua lại phải xin phép rồi nộp thuế…nói chung rất nhiêu khê và tốn kém.
Xã hội Nga trong thế kỷ 17
Ở thành phố, Nga có tầng lớp thị dân từ khá sớm. Họ là những người buôn bán, thợ thủ công, giáo viên, nghệ sĩ….chính vì nước Nga không như Trung Quốc coi trọng Sĩ, nông, công, thương nên tầng lớp này khá phát triển.
Tầng lớp quý tộc thường sống trong những lâu đài của họ. Họ ăn mặc lụng thụng, áo thường dài chấm gót. Tay áo rộng lùng thùng. Họ đi đâu, gặp ai cũng cử hành mọi nghi lễ rất nghiêm túc. Nên chỉ khi có việc mới gặp nhau.
Ở quê, người dân Nga có xu hướng sống thành những làng mạc. Họ không sống cô độc sâu trong rừng. Những ngôi làng nhỏ nằm ngay bìa rừng. Ở giữa các ngôi nhà thường là nhà thờ Chính thống giáo và ngay cạnh đó là một nhà tắm công cộng cho làng. Người dân Nga thường mặc áo may bằng vải thô với một sợi dây buộc lại ở thắt lưng. Hai ống quần được bó lại ở cổ chân hoặc được túm vào đôi giầy cao cổ ( nếu có giầy). Tóc họ cắt cao đến tai, nhưng để râu lòa xòa ít tỉa tót. Trên đầu đội một cái mũ lông thú. Khi lớn lên, làm lễ rửa tội theo Chính thống giáo họ thường đeo cây thánh giá ở cổ. Cuộc sống của người nông dân Nga cũng không khác gì mấy người nông dân châu Âu trong thời kỳ Trung cổ. Cũng sống nhờ vào trồng trọt và chăn nuôi. Nhưng đến ngày 1/5 ngày chào hè và có ý nghĩa hồi sinh và trù phú họ vào rừng, nướng thịt, tổ chức tiệc khiêu vũ, ăn nhậu say xỉn,…
Thân phận người phụ nữ Nga thì lại giống người phụ nữ ở phương Đông. Trái ngược với Pháp và các nước phương tây. thường tôn trọng, nịnh đầm phụ nữ, thì người Nga lại cho rằng trong phụ nữ luôn tiềm ẩn những tố chất xấu có điều kiện là bung ra. Phụ nữ ở Nga, ngay cả ở giới quý tộc, hầu như họ thường kết hôn với người họ chưa từng gặp. Cho đến khi ông bố và gia đình chú rể thương thảo xong xuôi. Việc thương thảo dường như chỉ gồm có 2 phần là của hồi môn và được ông bố đảm bảo về trinh tiết của cô gái. Nếu như sau đêm tân hôn chú rể có than vãn cô dâu không còn trinh (mặc dù không chính xác) thì hôn lễ vẫn bị hủy bỏ và của hồi môn được trả lại. Sau khi hiệp thương xong, cô dâu che mạng đi ra giới thiệu với chồng tương lai. Ông bố dùng cái roi đánh nhẹ vào lưng con gái và nói: “Con gái ta, đây là lần cuối cùng con được cha dạy dỗ. Bây giờ con không còn lệ thuộc vào cha nữa. Nhưng nếu con không tốt với chồng của con anh ấy sẽ thay cha mà dạy con với cây roi này”. Sau đó người cha sẽ trao cây roi cho chú rể.
Trước ngày cưới, bà mẹ cô dâu dẫn con đến nhà chú rể. Buổi sáng trước ngày cưới cô dâu bịt kín toàn thân. Khi trao nhẫn cưới phải cam kết chung thủy. Rồi cúi xuống đôi giày của chồng, cho trán chạm vào đôi giày của chồng tỏ ý phục tùng và không dám cãi lại. Khi quan khách nhậu nhẹt bên ngoài thì cô dâu và chú rể vào phòng khoảng 2h đồng hồ. Sau đó sẽ mở cửa đi ra. Mọi người hỏi xem cô dâu có còn trinh không. Nếu chú rể nói “Có” thì mọi người chúc mừng. Nếu chú rể nói “Không” thì mọi người đem cô dâu về nhà luôn trong đêm đấy kèm theo của hồi môn được trả lại.
Sau khi kết hôn, người phụ nữ như là nô lệ trong gia đình chồng. Chồng thích thì ban phát cho ngụm vodka. Còn không thì đánh. Luật pháp lại cho phép đánh vợ nên nhiều khi người vợ bị đánh chết thì người chồng lại được đi cưới vợ khác. Nhưng có nhiều khi vợ đánh lại nên kẻ chết lại là ông chồng. Lập tức Sa hoàng Aleksei ban bố một đạo luật để bảo vệ đàn ông và trẻ em nhằm trừng phạt nặng người vợ có bản án giết chồng là bị chôn sống với cái đầu thò lên cho đến lúc chết.
Còn nếu chồng muốn thay vợ khác, ly dị. Thiên Chúa giáo cấm ly dị, nhưng Chính thống giáo thì khác, luôn tìm cách mở đường cho đàn ông. Ly dị rất đơn giản. Ông chồng chỉ cần kiếm chai vodka, đến gặp cha xứ và hôm sau người vợ lập tức được đưa vào trong tu viện ở suốt cuộc đời không cần biết cô ta có muốn hay không. Còn ông chồng thì thoải mái đi với những cô gái khác. Có thể nói thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ở Nga cực khổ trăm bề. Họ luôn bị coi là tầng lớp dưới, nhiều khi không được đối xử như con người.
Tôn giáo
Chính thống giáo du nhập vào Nga từ cuối TK thứ 10. Nhưng phải đến cuối thế kỷ thứ 16 thì Chính thống giáo Nga thoát ly hoàn toàn khỏi sự ảnh hưởng của Thượng phụ Constantinope (phẩm bậc cao nhất trong Chính Thống giáo Đông phương). Có nghĩa là Đức Giáo chủ Nga hoàn toàn độc lập và không phải báo cáo ai cả.
Không như Giáo hoàng La mã, đứng trên cả các ông vua của châu Âu. Thì Giáo chủ ở Nga lại hoàn toàn bị phục tùng Sa hoàng. Duy nhất trong lịch sử chỉ có duy nhất Giáo chủ Nikon có lúc còn vượt mặt được Sa hoàng Aleksei (Cha của Peter). Ông xây thêm tu viện, cấm các giáo sĩ uống rượu, mời các Giáo chủ khác đến Nga. Bày ra một loạt những nghi lễ vốn đã rất rườm rà của Chính thống giáo. Nhưng cũng như đa phần các Giáo chủ khác của Chính thống giáo nước Nga. Vào lúc đỉnh cao của quyền lực, tất cả những việc to nhỏ trong nước Nga đều phải có ý kiến của Nikon thì công việc mới được thông qua. Dần dần ông đưa quyền lực của Giáo hội vượt lên trên quyền lực của triều đình. Cuối cùng Sa hoàng đuổi Nikon ra khỏi Moscow về Tu viện New Jerusalem và sau này đày ông sang Siberia lạnh giá. Trong những năm cuối đời Giáo chủ sống nghèo đói trong cô đơn bệnh tật và chết trên đường trở về New Jerusalem.
Vị Giáo chủ kế vị Nikon mà là Joachim hoàn toàn quy phục Sa hoàng. Thế là Giáo hội thì ngày càng cùn đi, thiếu tổ chức , ù ì, mục nát và mê tín. Trên thực tế nó chỉ còn là tay sai để Sa hoàng lợi dụng cai trị dân chúng. Dân Nga là những người hiền lành, ù ì và dễ chấp thuận. Không như châu Âu, họ xem tín ngưỡng mạnh hơn logic và cho rằng cuộc sống được kiểm soát bởi nhũng sức mạnh siêu nhiên. Và quan trọng nhất là họ thích rượu vodka hơn khoa học. Chỉ cần làm chai rượu vào thì phó mặc mọi việc cho Chúa. Chính vì thế họ không có những người phản đối nhà thờ như Copernicus, Galilei…. Thiên tai xảy đến họ chấp nhận, lệnh ban ra họ thi hành và Đức tin thì vô cùng lớn và không bao giờ thay đổi.
Chính vì thế nên không như tây Âu có nhiều trò tiêu khiển khác, món ăn tinh thần chính của dân Nga là hành lễ và dành toàn bộ Đức tin nơi Chúa. Trong lịch ngày, tháng, năm của họ thì họ dành đa số thời gian cho việc cầu nguyện ( Chính thống giáo rất bảo thủ và vô cùng nhiều nghi lễ). Đến nhà thờ họ hành lễ với cha xứ, về nhà họ cầu nguyện với cây Thánh giá gỗ ở nhà. Trước khi ngủ với vợ người đàn ông tháo Thánh giá ra, che hết thánh giá và đồ thờ trong nhà lại rồi mới ”hành sự”
Thậm chí ăn trộm, trước khi đi trộm ở đâu cũng tự cầu nguyện trước thánh giá xin xá tội rồi mới đi ăn trộm.
Không phủ nhận những giá trị Chính thống giáo đóng góp cho Nga. nhưng thật sự thì chính Chính thống giáo cũng cản trở nước Nga phát triển. Một trong những việc đó là bài xích người nước ngoài. Giống như Trung Quốc, nước Nga ở thế kỷ 17 coi mình là trung tâm của vũ trụ, là nơi văn minh nhất nên coi thường và kỳ thị những người nước ngoài. Cho rằng họ mọi rợ, không đủ nghi lễ, hút thuốc lá….Ngay cả đến các vị đại sứ của các cường quốc tây Âu cũng bị cho rằng “Không làm gì tốt cho nước Nga cả, chỉ kéo những điều xấu xa, trụy lạc, suy thoái”. Tư duy đó tồn tại mãi, cho đến khi Peter Đại đế lên ngôi ông mới xóa bỏ. Ở thế kỷ 17, cuộc sống tinh thần của đa số dân Nga chỉ biết tin vào giáo lý của Chính thống giáo. Một lời nói của Đức Linh mục như một lời tuyên thệ, lời chỉ dẫn của Chúa. Nên dân hoàn toàn phục tùng và nghe lời. Nhưng ở thượng tầng họ bị phụ thuộc hoàn toàn vào triều đình và để cho Sa hoàng lợi dụng
Quân đội
Nói về quân đội Nga thế kỷ 17, ta phải tìm hiểu xem châu Âu hồi đó tiến hành và cách thức chiến tranh như thế nào. Khi các vị quân vương mâu thuẫn với nhau về kế vị (chiến tranh kế vị Tây Ban Nha), tôn giáo (Pháp, TBN và Anh Thế kỷ 16) hay bất kỳ một lý do gì đó là có thể gây chiến tranh.
Vấn đề là những nước lớn: Anh, Pháp, Tây Ban Nha…. thì quân đội bao giờ cũng sẵn đại bác, tàu bè bao giờ cũng nhiều, dân số thì đông đúc nên nguồn lực chiến tranh luôn dồi dào. Nhưng những nước nhỏ: Hannover, Hà Lan, Phổ, Đan Mạch…..thì lấy đâu ra quân? Có tiền có thể mua được đại bác, súng ống, gươm kiếm…chứ người thì lấy đâu ra. Thế là lính đánh thuê xuất hiện. Ngày đó khái niệm đi lính đánh nhau nó là một nghề. Họ không vì tổ quốc, vì lý tưởng, mà họ đi đánh nhau lấy tiền. Nay họ cùng chiến hào với người này, ngày mai lại cầm súng bắn vào những người hôm qua vừa cùng chiến hào với mình. Họ coi lẽ dĩ nhiên nó phải thế hoàn toàn không có ý nghĩ đào ngũ, chạy sang bên kia chiến tuyến hay chiêu hồi….. Hơn nữa, vương quốc nào cần quân có thể thuê hàng quân đoàn. Vị quân vương này hưởng thái bình rồi thì cho quân vương khác đang có chiến tranh thuê cả hàng quân đoàn thu tiền về hưởng lợi. Quân đội Nga cũng không nằm ngoài quy luật đó, trong suốt thế kỷ 16,17 các sĩ quan cao cấp trong quân đội Nga toàn là người Pháp, Hà Lan, Anh, Đức….
Không phải cứ lừa nhau đánh úp như ngày nay hay như phương Đông, các quóc gia châu Âu hồi đó có quy định về chiến tranh theo thông lệ. Vì mùa đông ở châu Âu rất lạnh, tuyết rơi, ngăn cản những cuộc hành quân và chiến đấu, nên các quốc gia châu Âu đồng thuận và đưa ra những quy định về chiến tranh. Họ chiến đấu vào hai mùa Hè và Thu còn Đông và Xuân thì nghỉ ngơi và tuyển quân. Thường là sau mùa xuân khi tuyết tan, cỏ đã mọc nhu nhú cho ngựa có thể ăn được. Nhất là vào khoảng tháng 5,6 khi bùn đã khô các cánh quân bắt đầu di chuyển. Họ đánh nhau công hãm thành, khiêu chiến…cho đến tháng 10. Tháng 11 khi sương giá bắt đầu xuất hiện thì các đạo quân bắt đầu chui vào trong trại để trú đông. Còn các sĩ quan cao cấp của họ quay về kinh đô ăn chơi hát lượn. Như trong cuộc chiến tranh kế vị Tây Ban Nha, trong suốt 10 năm liên tiếp cứ đến mùa đông Công tước John Churchill Marlborough đều về London thăm cô bồ trẻ. Cùng thời gian này các sĩ quan Pháp cũng về Paris ăn chơi đàn đúm. Có 1 quy ước rất văn minh là việc cấp phép cho sĩ quan đi qua lãnh thổ thù địch để về quê nghỉ đông với vợ. Sĩ quan Anh đang đánh nhau với liên quân Pháp – Tây Ban Nha ở Ý có thể được phép đi qua đất Pháp để về Anh.
Còn hành quân, phải nói rằng châu Âu hành quân rất chậm. Trung bình một đoàn quân 1 ngày hành quân được vẻn vẹn 8km. Công tước Churchill xứ Marbourough – một trong những vị tướng đại tài của châu Âu thế kỷ 17-18 có cuộc hành quân dọc sông Rhine được coi là thần tốc và được ghi vào sách giáo khoa chiến tranh của châu Âu với tốc độ 11 km/ ngày!!!. Hàng quân chậm vì nó có lý do của nó. Vũ khí hạng nặng thời đó chính là pháo đại bác. Khổ nỗi pháo và đại bác không tự hành được mà phải dùng ngựa kéo. Khổ nỗi, bánh xe của khẩu pháo đi trước làm nát đường, khẩu sau lại bị trơn trượt nên không thể đi nhanh được. Đạn đại bác nhẹ nhất 3kg, nặng nhất 12kg càng không thể đi nhanh. Các đoàn quân đi thành hàng dài, kỵ binh đi trước và 2 bên để bảo vệ, xe ngựa kéo, pháo, đại bác, xe goòng đi sau. Ngày đi đêm nghỉ, dựng trại buổi tối cũng mất thời gian. Họ dựng lều theo hàng ngang, dỡ hàng hậu cần ra, nhóm lửa nấu ăn, cho ngựa nghỉ ngơi…Nếu gần chỗ quân địch thì phải đào công sự, dựng cọc bảo vệ canh gác….
Cũng chính vì hành quân khó khăn như thế, nên nước Nga ở quá xa xôi châu Âu hầu như ít bị tấn công, sau này những vị quân vương nào tấn công Nga đều bị trả giá, Karl XII, Napoleon và cả Hutlơr….là những tấm gương cho những người có ý định đánh chiếm nước Nga
*Cách thức và chiến thuật trong mỗi trận chiến.
Không giống phương đông, khi đánh nhau thường ở đồng trống rồi hai đại tướng cầm quân ra chào hỏi. Quân sĩ hò reo và thấy bên nào yếu thế thì lao vào chém giết….Phương Đông nếu không giữ được thành sẽ tuẫn tiết theo thành. Châu Âu thời trung cổ tùy từng ông vua, điển hình là vua Louis XIV rất thích vây hãm, ông đã vây hãm 50 thành phố thị trấn và đều phá được. Ngoài ra trong chiến thuật phòng thủ ông cũng cho xây dựng những pháo đài được cho là kiểu mẫu của châu Âu thời bấy giờ. Trong cuộc vây hãm khi thấy tường thành sắp bị sụp đổ không chịu nổi đạn pháo nữa thì người giữ thành sẽ đầu hàng trong danh dự và hầu như đối thủ của họ sẽ chấp nhận. Còn nếu không đầu hàng thì cả thành phố khi sụp đổ sẽ bị tàn phá, cướp, hiếp, giết….
Các nhà quân sự nổi tiếng thời này là quận công xứ Marlbourough, Vua Thụy điển Karl XII. Thì lại thích di chuyển, không thích vây hãm. Triết lý chiến tranh của họ về sau được Patton áp dụng là “Liên tục tấn công”. Khi trận chiến nổ ra, đầu tiên là đại bác khai hỏa, nhưng binh sĩ châu Âu cũng khá gan dạ, đứng yên hàng ngũ khi đại bác gầm rít. Sau khi đại bác khai hỏa, các đoàn bộ binh vừa di chuyển vừa dùng súng bắn vào nhau. Thời kỳ này có 2 loại súng, quân đội Nga súng hỏa mai cồng kềnh bắn được một phát đạn thì mất tới 22 thao tác và trong khí hậu ẩm ướt thì lại vô dụng. Trong khi quân đội châu Âu, dùng súng kíp, nhẹ hơn, ít thao tác hơn nên thời gian bắn cũng nhanh hơn họ có thể bắn được vài phát mỗi phút. Khi tới sát nhau, lưỡi lê gắn ở đầu súng được mở ra. Họ giáp lá cà chiến đấu, cái này quân đội Nga cũng ở vào thế yếu hơn vì quần áo lụng thụng râu ria xồm xoàm, quân lính say xỉn…trong khi quân châu Âu mặc quần áo gọn gàng hơn thao tác nhanh nhẹn hơn. Quân Nga cũng có điểm mạnh thời đó. Đó là kỵ binh tuy nhiên kỵ binh phương tây lại không mang tính chất quyết định cho mỗi trận chiến.
NHỮNG CUỘC CẢI CÁCH
Peter Đại đế có tầm nhìn vượt hẳn những người Nga thời bấy giờ, và ông có tư duy vượt trội cả những bậc tiền bối. Ông là Sa hoàng đầu tiên đi ra nước ngoài. Trong khi các Hoàng đế tây Âu đi lại thăm thú và bắt tay với nhau từ rất lâu rồi thì các Sa hoàng trước đó chưa từng bao giờ thoát khỏi đất nước mênh mông của mình. Cái này giống Trung Quốc, các Hoàng đế trung hoa cũng chẳng bao giờ đi đâu. Thậm chí đi trong nước cũng là đi ăn chơi, hưởng thụ, sa đọa kéo theo rất nhiều người phục dịch và tốn kém. Như Tùy Dạng Đế và thậm chí cả Càn Long là ví dụ điển hình. Nhưng Peter đi nước ngoài để học hỏi cái hay, cái văn minh của châu Âu, thừa nhận sự yếu kém lạc hậu của nước Nga cho thấy sự cầu thị và tầm nhìn của ông khác xa với đa số người Nga thời đó.
Ông sang Hà Lan, lừa lừa tách đoàn trốn đi. Nhưng không phải trốn đi chơi ông trốn đi, giấu thân phận của mình đi để xin vào học ở một xưởng đóng tàu. Để không lộ thân phận hoàng đế, ông cất tiền Nga, làm công việc xúc tuyết, đốt lò như dân thường Hà Lan để kiếm tiền học trong khi tùy tùng ăn chơi đàn đúm. Nhận thấy một quốc gia nhỏ bé như Hà Lan lại giàu có hùng mạnh nhờ tàu thuyền, sau này ông quyết tâm xây dựng Hải quân Nga. Thật khó tin nhưng nước Nga trước thời Peter không hề có Hải quân!!! Bởi lẽ các đường ra biển Baltic, Azov của họ đều bị Thụy Điển, Ottoman ngăn chặn. chỉ có cửa biển duy nhất Arkhangelsk thì thường xuyên bị đóng băng chỉ dùng được 3 tháng mùa hè.
Sau đó nhà vua sang Anh, thăm thú Hải quân Anh – mạnh nhất thế giới thời bấy giờ. Ông công khai danh tính Nga hoàng của mình và được người Anh tiếp đón trọng thị. Ông lang thang tìm những người tài, người có trình độ, tri thức gạ gẫm họ về làm việc cho nước Nga và ông tuyển được 60 người Anh như thế (Trong cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18 Anh là cường quốc về khoa học công nghệ). Chính vì tuyển nhiều người phải tốn nhiều tiền, phải mua các vật dụng phụ tùng khí tài để về nước Nga làm việc, mà tiền thì nước Nga không có nhiều. Thế là ông cắn răng ký vào thỏa thuận cho phép người Anh đem thuốc lá qua Nga bán miễn thuế và không hạn chế vùng bán. Thương vụ này đã mang lại cho nước Anh nguồn lợi khổng lồ mà sau này nước Anh vẫn âm thâm cảm ơn Peter đại đế.
Về nước, việc đầu tiên Peter làm là một chuyện vô cùng động trời: gọi tất cả các tướng lĩnh, boyar, quan lại, giáo sĩ đến. Đích thân ông cầm con dao cạo ra cạo râu từng người một. Chỉ có Giáo chủ là thoát. Điều đó có gì to tát?
Người Nga vốn có truyền thống để những bộ râu dài và đẹp. Từ xưa đến nay Chính thống giáo luôn coi việc cạo râu là bẩn thỉu, tội lỗi. Các giáo chủ thường rao giảng như sau: “Thượng đế không tạo ra con người thiếu chòm râu, chỉ tạo ra chó và mèo như thế. Cạo râu không những là việc điên rồ và ô danh, đấy còn là tội lỗi”. Vậy mà nháy mắt, ông vua của họ cầm dao cạo sạch. Mọi người nhìn nhau như từ trên trời rơi xuống. Khiếp đảm, lo âu, sợ hãi vì bộ râu dài ngày xưa thường được coi là biểu tượng của Đức tin và lòng tự trọng nay nhẵn như chùi đương nhiên là họ sợ hãi. Còn Peter thì Tây hóa hơn, ông cho bộ râu là lạc hậu, bảo thủ, thiếu văn minh và làm trò cười cho phương Tây. Ông muốn tự tay tấn công bắt đầu từ những cái hủ tục nhất, truyền thống nhất. Ông ra lệnh cho Đại nguyên soái Shein cho quân đội đi cạo râu những người trong nước.
Việc này được luật hóa, mọi công dân Nga ngoại trừ giới tăng lữ và nông dân, ai cũng phải cạo râu. Quân lính được lệnh cạo râu bất kỳ người nào họ gặp, dù địa vị của người đó cao đến đâu cũng phải chấp hành. Lúc đầu những người này còn hối lộ cho quân lính để không phải cạo râu. Nhưng hối lộ thế có mà phá sản. Tiếp đó Sa hoàng ban hành luật người dân muốn để râu dài phải nộp 30 rouble, lãnh chúa và quan lại muốn để râu phải nộp 60 rouble, riêng tầng lớp phú thương phải nộp 100 rouble. Ông cho làm một tấm bản đồng nhỏ như biên lai thu tiền để được để râu. Ngoại lệ duy nhất để râu không phải đóng thuế là hàng giáo phẩm của Giáo hội.
Sau cùng Sa hoàng ra một luật mới, ai muốn mang râu cũng được, nhưng phải trả thuế hàng năm cho bộ râu của mình. Những người này được cấp một cái huy hiệu đeo vòng qua cổ để chứng minh bộ râu mình mang trên người là hợp pháp. Dần dần những người mang râu lại bị kỳ thị, nhất là đứng trước mặt Sa hoàng thường làm ông nổi giận nên họ không có cửa thăng tiến.
Xong việc râu tóc, ông quan tâm tới quần áo. Ông bắt các boyar thay hoàn toàn trang phục của mình sang kiểu tây Âu.
Ông ban lệnh bỏ tục mặc áo thụng (kaftany) xùng xình của người Nga. Cách ăn mặc truyền thống của giới quý tộc Nga là: áo lót ngắn thêu hoa bên trong, ngoài mặc áo lụa màu sặc sỡ rồi khoác thêm áo dài, phía ngoài lại khoác thêm một chiếc áo dài hơn mà từ trên xuống dưới đều kết nhiều nút. Cách ăn mặc đó dù đẹp nhưng làm trở ngại mọi hoạt động. Vì vậy Pyotr ra lệnh cắt hết tay áo quá rộng. Ông ban bố cáo quy định: “dân cư Moskva và các thành thị khác, áo dài bên ngoài chỉ được đến đầu gối, còn áo lót bên trong phải ngắn hơn áo ngoài”.
Từ xưa đến nay nguời Nga quen mặc quần áo lụng thụng. Áo thêu bên trong chèn vào quần. Quần cũng lụng thụng, chèn vào trong giày bốt với mũi cong lên. Bên ngoài mặc thêm áo nhung hay bằng vải satin, vải thêu kim tuyến với tay áo rất dài và rộng. Khi đi ra ngoài, người Nga còn khoác thêm một áo choàng dài bằng vải nhẹ (trong mùa hè) viền lông thú (trong mùa đông) với cổ đứng hình vuông. Hai tay còn dài hơn áo trong thòng xuống tới gót chân. Với cái quần áo như thế thử hỏi để làm việc trong xưởng đóng tàu, điều khiển thuyền, hay diễu hành đánh đấm làm sao? Chưa kể sang tây Âu họ nhìn ngắm, cười cợt chỉ chỏ vào những người Nga như những thằng hề, hoặc kẻ quê mùa. Nên Peter lại quyết tâm thay đổi.
Lần này ông cũng tự tay cầm kéo cắt ống tay áo của các boyar, tướng lĩnh. Ông cũng luật hóa chuyện ăn mặc này, đầu tiên bắt toàn bộ những người Nga chuyển sang mạc trang phục kiểu Hungary hoặc kiểu Đức. Tiếp theo có luật cấm mang giầy ống cao cổ và kiếm dài kiểu Nga. Quân lính được lệnh gặp ai còn mặc quần áo kiểu Nga bất kể quý tộc hay tướng lĩnh đều bắt phải quỳ xuống để người lính xén vạt áo. Thật là một sự sỉ nhục những người mang quần áo truyền thống kiểu Nga.
Tiếp theo ông cải cách về niên lịch. Trước đây người Nga dùng thứ lịch riêng của họ, thời Peter họ tính là cỡ năm 7200!. Và họ bắt đầu năm mới vào khoảng 1/9. Việc này đem lại sự bất lợi cho việc giao thương với Tây Âu. Thế là ông thay đổi bắt đầu từ ngày 1/1/1700 (theo Tây Âu) ông cho dùng lịch mới và đón năm mới theo lịch này. Khổ nỗi người Nga luôn bảo thủ cho rằng họ là tất cả thế giới. Họ cho là Thượng đế không thể tạo ra thế giới trong mùa đông giá buốt, vì nếu thế thì Adam được sinh ra sẽ chết cóng. Peter đem bản đồ thế giới đến, giải thích cho dân chúng là nước Nga không phải tất cả của thế giới. Trong lúc nước Nga mùa đông thì nơi khác là mùa hè. Hơn nữa ông bắt buộc các nhà cửa phải trang hoàng và chúc tụng nhau trong dịp 1/1 và nhà thờ phải rung chuông cầu nguyện trong khoảnh khắc giao thừa.
Về tài chính tiền tệ. Trước đây người dân Nga dùng đồng Kopek, chất lượng và kích thước khác nhau rất nhiều. Khi người ta cần tiền lẻ, lấy dao chặt đồng kopek ra thành đồng lẻ. Khi sang Anh, tham quan xưởng đúc tiền của Hoàng gia Anh Peter nhận thấy muốn lớn mạnh, thương mại phát triển, nhà nước phải nắm lấy quyền kiểm soát và đúc tiền để có lượng tiền mặt đầy đủ. Thế là về nước ông đổi tiền, đúc loại tiền to hơn, đẹp hơn làm bằng đồng cùng một kích thước để thay thế cho đồng Kopek. Sau đó ông dùng bạc đúc ra đồng tiền có mệnh giá cao hơn cứ 100 đồng kopek đổi được 1 đồng đó. Thế là đồng ruble ra đời. Chính sách má cũng thay đổi. Để lấy tiền phục vụ cho chiến tranh với Thụy điển và xây dựng Saint Petersburg . Ông chia nước Nga ra làm 8 tỉnh, giao cho thống đốc các tỉnh này những quyền hành gần như tuyệt đối. Nhưng muốn tồn tại họ phải đảm bảo được nguồn thu thuế.
Vua cũng thông qua biện pháp cho vay ưu đãi để đẩy mạnh phát triển công nghiệp, bước đầu tạo nền tảng cho nền công nghiệp Nga. Khi ông qua đời, số nhà xưởng ở đế quốc Nga tăng từ 41 lên 440. Những ngành liên quan đến vũ khí như luyện kim, đóng tàu được đặc biệt nâng đỡ. Tại vùng Ural, người ta thành lập 60 xưởng luyện kim. Cuối triều vua Peter vào năm 1725, sản lượng gang tăng từ 8000 năm 1700 lên 1.815.000, không những thỏa mãn nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu. Vua Peter Đại còn đế áp dụng chính sách bảo hộ quan thuế, đẩy mạnh xuất khẩu. Cán cân thương mại của đế quốc Nga khi đó luôn trong tình trạng xuất siêu. Để tạo điều kiện cho sự phát triển của thương mại trong nước, Nga hoàng còn huy động hàng trăm ngàn nông nô đi đào kênh và xây bến cảng
Nhằm xóa bỏ sự lạc hậu của nước Nga, Vua chủ trương xây dựng hàng loạt trường học mới, dạy đủ các ngành khoa học: toán học, hàng hải, y học, xây dựng, đóng tàu, khai thác mỏ.
Ông còn phái du học sinh đến các nước Tây Âu để học hỏi, quy định tất cả con em quý tộc đều phải đi học và phải giỏi một ngoại ngữ, nếu không được như vậy sẽ bị tước đoạt quyền thừa kế. Thậm chí ông quy định học sinh nào không tốt nghiệp sẽ không cho phép kết hôn.
Peter Đại đế cho rằng đối tượng giáo dục không chỉ hạn chế trong giới quý tộc, ông cho phép con em dân thường cũng được đi học. Ông cho dịch hàng ngàn cuốn sách khoa học kỹ thuật và lịch sử các quốc gia khác. Ông cho cải cách chữ viết cho giản tiện hơn, bỏ những câu từ cổ, sáo rỗng. Ông cho in sách giáo khoa Hình học, Văn học và các sách lịch sử ca ngợi những anh hùng nước ngoài như Alexander Đại đế… điều này thật sự là một cải cách lớn. Vì từ xưa đến nay người Nga họ chỉ tôn thờ anh hùng dân tộc của họ mà rất ít khi coi trọng người ngoài. Tiếp tục ông cho in những tờ báo chủ yếu đưa tin tức từ chiến trường. Nhưng ông cũng kiểm soát báo chí chặt chẽ, biến báo chí thành cái loa tuyên truyền chống những luận điệu thù địch đối với ông
Năm 1725, việc xây dựng cung điện Mùa hè Peterhof được hoàn tất. Cung điện Peterhof (tên tiếng Hà Lan của “cung đình của vua Peter”) được khởi công xây dựng theo lệnh của Peter Đại đế vào năm 1714, tại thị trấn Peterhof thuộc quận Petrodvortsovy kinh đô Saint-Peterburg. Cung điện được xây dựng bởi nhiều nhà kiến trúc nổi tiếng của châu Âu thời bấy giờ. Cung điện Peterhof được mệnh danh “Versailles của nước Nga”.
Ông cho lập Bệnh viện nhân dân ở Moskva, nhân dân được chữa bệnh miễn phí. Ông cũng cấm bọn lang băm đi bán thuốc dạo linh tinh mà chỉ các cửa hàng y dược mới được bán. Đặc biệt ông cấm giết trẻ sơ sinh vì lý do dị tật ( trước đây khi trẻ sơ sinh dị tật nguời ta thường làm cho nó ngạt thở ngay khi được sinh ra). Ông còn cho xây dựng ở Moskva một y viện ngoại khoa có phòng mổ đầu tiên. Ở tất cả các thành phố đều có nhà thuốc.
Pyotr I cho xây các bảo tàng, xưởng in, thư viện và kịch viện đầu tiên ở Nga. Năm 1703, tờ báo đầu tiên ở Nga được phát hành mang tên Vedomosti. Năm 1721, 80 nhà vẽ bản đồ nhận chỉ thị của hoàng đế đề vẽ tấm bản đồ nước Nga. Năm 1724, trước khi qua đời, ông vẫn dốc tâm xây dựng Viện Khoa học Nga.
Để nâng cao đời sống tinh thần cho người dân. Ông cho xây dựng nhà hát nhân dân ở Moskva và mời nhà quản lý người Đức đến quản lý nhà hát. Đồng thời cho vợ mình là nữ hoàng Catherine đến chỉ huy dàn dựng các vở nhạc kịch mang đậm chất Nga.
Để đảm bảo an ninh, ông cấm mang vũ khí và nghiêm cấm việc thách đấu, đấu kiếm tay đôi vốn là thời thượng của châu Âu thời bấy giờ. Qua việc này ta mới thấy mặc dù hấp thụ gần như toàn bộ văn minh tây Âu, nhưng ông cũng biết chọn lọc những cái gì không tốt thì không áp dụng.
Ông bỏ bớt mọi nghi lễ rườm rà, phiền phức cho người dân. Năm 1701 ông ra sắc dụ rằng thần dân không cần quỳ gối và phủ phục trước đấng quân vương. Ông bỏ luật bắt người dân bỏ mũ ra kể cả giữa mùa đông giá rét khi đi qua hoàng cung. Bất kể Sa hoàng có trong đó hay không. Chế độ thi đua khen thưởng cũng được thay đổi. Từ trước tới nay cứ thưởng cho ai là Sa hoàng cấp đất, phong tước…. Peter học theo tây Âu, ông làm những cái Medal. Đặt tên là huân chương Saint Andrey là phần thưởng danh dự cao nhất mà Sa hoàng ban tặng cho những người có công với đất nước.
Peter xóa bỏ Viện Duma quý tộc là cơ quan ngày càng bất mãn trước những cải cách của ông. Ông xóa bỏ bộ máy nhà nước cồng kềnh, trách nhiệm không rõ ràng, xây dựng chính quyền tối cao tập quyền, tự mình lập ra Viện Tham nghị gồm 9 thành viên do ông chỉ định và 9 hội đồng có tính chất quản lý toàn quốc, chịu trách nhiệm về các lĩnh vực khác nhau. Về mặt hành chính, ông chia đế quốc Nga thành 8 vùng và 50 tỉnh. Năm 1714, đích thân ông chủ sự soạn thảo và ban bố bản “Quy định đẳng cấp của quan chức”, chia các chức quan văn võ làm 14 bậc. Ông dựa vào trình độ trí thức, tài năng, đóng góp của các quan mà quyết định thăng hay giáng cấp. Một trong những trường hợp điển hình của việc phát hiện và trọng dụng nhân tài của vua chính là việc đưa một người thợ làm bánh Menshikov lên làm Tổng đốc thành phố Sankt-Peterburg và sau này Menshikov trở thành một trong những nhân vật có tiếng trong nước.
Địa vị của quý tộc cũ bị hạn chế, xuất hiện thêm một bộ phận quý tộc mới. Nga hoàng tỏ ra nghiêm khắc với tầng lớp quý tộc và đối xử công bằng giữa họ với dân thường. Có nhà quý tộc vì báo cáo sai danh sách tân binh với ông đã bị nọc ra đánh bằng roi trước công chúng.
Bộ mặt đời sống, xã hội, tâm linh của nước Nga thay đổi từng ngày. 5 năm sau (1705) những ngườii châu Âu đến nước Nga họ cảm thấy không còn lạc lõng nữa, và người Nga đi ra ngoài cũng không bị chê là quê mùa, kỳ dị nữa.
Cải cách xã hội xong, Peter bắt ta vào cải cách các lực lượng vũ trang. Bắt đầu từ quân cấm vệ.
Phải nói thêm, lúc còn nhỏ ở Moscow Peter từng chứng kiến một cuộc nổi loạn. Người chị gái cùng cha khác mẹ của ông là Sophia Alekseyevna, đã xúi quân cấm vệ làm loạn, giết rất nhiều người thân, bạn bè của Peter. Vua nhỏ bị đuổi khỏi Moscow, bị mất quyền lực. Sau này khi giành lại ngai vàng, Peter có thù hân với không chỉ quân cấm vệ, mà với cả Moscow. Vì thế ông đã quyết tâm dời đô đến Saint Petersburg và không bao giờ đặt chân về Moscow. Sau này dù Saint Petersburg có nguy cơ sụp đổ trước quân Thụy Điển, Peter cắt hết đất Estonia, Latvia cho Thụy Điển chứ nhất quyết không bỏ thủ đô. Sự kiên quyết của ông đã giúp St. Petersburg tồn tại suốt chiều dài lịch sử.
Vốn có ấn tượng không tốt với quân cấm vệ từ trước, nên khi cải cách Peter tìm mọi cách giải tán bọn kiêu binh này. Nhưng giải tán bọn này không dễ, chúng bật lại, chạy ra ngoài chống lại Sa hoàng. Cuối cùng cũng có đổ máu. Trong số 2.000 quân Cấm vệ nổi loạn có tới 1.200 người bị hành quyết, vợ con họ bị đuổi ra khỏi Moskva đày sang Siberia và hầu hết đều chết trên đường di chuyển.
Giải quyết xong cái gai sau lưng (bọn cấm vệ) ông quay sang cải cách quân đội. Quân đội Nga cho đến trước thời Peter đại đế là quân đội lạc hậu nhất châu Âu, do con người, vũ khí, khí tài quá kém. Cấp sĩ quan chỉ huy thì tham nhũng, khai khống tên binh sĩ để lấy lương mua rượu vodka uống. Có những đơn vị đến 1/3 là quân số ma. Những binh sĩ còn lại thì tinh thần chiến đấu kém cỏi, cầm chai rượu là chính cầm súng là phụ. Quần áo thì lụng thụng, vũ khí lạc hậu…
Đại đế cho tăng nguồn quân phí để phục vụ chiến tranh, cải cách chế độ quân dịch và các điều lệ quân sự, mua sắm những loại vũ khí tiên tiến ở nước ngoài. Đồng thời, ông khuyến khích các công xưởng trong nước phát triển chế tạo vũ khí mới, đóng tàu bè, đúc đại bác. Ông xây dựng một đội quân đầy đủ những các loại binh chủng như bộ binh, kỵ binh, pháo binh, công binh,… gồm những đội quân chính quy có trình độ tiên tiến; cộng thêm một hải đội lớn mạnh gồm 352 chiến hạm, mấy trăm loại thuyền tốc độ cao và 328.000 thủy quân
Peter thay đổi cấp chỉ huy, cải tiến vũ khí (nhờ những người Anh khi ông sang Anh thuê về) mua thêm vũ khí, và quan trọng nhất ông phát triển hải quân. Trước thời Peter quân đội Nga hoàn toàn không có Hải quân. Cả nước Nga rộng lớn như thế chỉ có mỗi một cảng biển là Arkhangelsk một năm chỉ dùng được 3 tháng mùa hè còn lại là đóng băng. Xuống phía nam thì gặp ngay đế quốc Ottoman hùng mạnh. Chính Peter cũng mấy lần đem quân xuống Azov đánh nhưng toàn thua và bỏ hẳn ý định mở con đường ra biển từ hướng này. Nhận thấy không thể phát triển mà không có Hải quân. Những nước có ngành hằng hải mạnh là những cường quốc trong quá khứ (Tây ban nha, Bồ đào nha, Hà lan) và hiện tại (Anh, Pháp). Họ đánh chiếm khắp nơi, thuộc địa được mở ra khắp thế giới, ngày càng giầu mạnh. Không chịu làm con gấu ngủ đông, nằm một chỗ, Peter quyết tâm xây dựng Hải quân Nga
Nhưng con đường phát triển Hải quân của nước Nga chỉ còn duy nhất con đường ra biển Baltik. Cũng va phải đế quốc rất mạnh là Thụy điển – Bà chúa miền bắc. Peter khôn khéo và quyết tâm. Ông chiếm lấy vùng đầm lầy khu vực sông Neva đổ ra biển và xây dựng lên thành phố Saint Petersburg. Trong cuộc chiến với Thụy điển, có những lúc ông tan tác như ở Golovchin, Pruth. Nhưng ông không nản chí, rút kinh nghiệm, xây dựng lại quân đội, chỉnh đốn hàng ngũ thuê những sĩ quan chỉ huy giỏi hơn và cuối cùng cũng đem đến chiến thắng Pultowa vĩ đại. Chiến thắng Pultowa này còn cao hơn những cuộc chiến sau này như Cuộc chiến chống Napoleon, chống Phát xít…. vì nó đánh dấu sự khởi đầu của một đế quốc mới chuyển mình theo kịp phương tây và vươn lên ngang hàng với các cường quốc lớn trên thế giới.
Tuy là Sa hoàng, nhưng tính ông giản dị bỏ qua nghi lễ, ăn mặc giản dị. Xe ngựa đi lại của ông cũng nhỏ, kém xa hoa và bình dân đến nỗi một người nước ngoài nhận xét rằng: “Với cỗ xe của Sa hoàng tồi tàn đến mức không một thương nhân danh giá nào muốn ngồi lên một cái xe như thế”. Ông thường tự do đi giữa dân thường, hòa mình với họ hỏi han họ. Một ngày ông làm việc từ 12-16h. Ông dậy rất sớm từ 4h sáng, đọc báo cáo. Ăn sáng xong rồi gặp các đại thần. Rồi qua bộ Hải quân làm việc từ 2-3 tiếng. Quay về nhà, làm việc trên máy tiện (máy cơ khí) rồi ăn trưa. Sau bữa trưa ông làm việc với các trợ lý riêng của mình rồi ra đường lúc 4h chiều. Ông ra đường, đi lang thang tay cầm theo quyển sổ để ghi chép các ý tưởng. Buổi tối ông đi thăm viếng bạn bè hoặc đến úy lạo các buổi họp mặt cộng đồng những người nước ngoài ở Nga.
Sau khi đi Pháp về ông học hỏi theo họ, giải phóng phụ nữ ra khỏi 4 bức tường, ông cho phép mở tiệc và khuyến cáo vợ con những người được mời cùng tham dự. Ông giải phóng phụ nữ ra khỏi những tư tưởng bảo thủ của chính thống giáo Nga. Ông khuyến khích những người phụ nữ chửa hoang đẻ con và nuôi con. Cấm các hành động phân biệt đối xử với phụ nữ chửa hoang.
Ông thành lập các bảo tàng: Sinh học, Lịch sử, nghệ thuật… và đặc biệt để khuyến khích dân chúng đến để nâng cao dân trí ông không hề bán vé, thu tiền mà dùng tiền quốc khố ra duy trì cho những hoạt động đó. Nhưng cống hiến quan trọng nhất của ông cho giới trí thức của nước Nga chính là Viện Hàn lâm khoa học mà cho đến tận bây giờ vẫn là cơ quan tri thức cao cấp nhất nước Nga. Việc thành lập Viện hàn lâm khoa học chỉ diễn ra trước khi ông mất 1 năm
Về thương mại, ngoài việc mở đường ra biển Baltik ông cũng cho mở các con đường thương mại đến Ba tư, Trung hoa. Nhưng do 2 quốc gia này không cởi mở nên giá trị trao đổi các hàng hóa thương mại cũng không cao và dần dần những con đường thương mại này cũng không phát triển được
Trong những năm cuối đời, Peter tiếp tục cải cách. Ngày 22 tháng 10 năm 1721, ít lâu sau khi Nga ký hòa ước với Thụy Điển, ông được tôn làm Hoàng đế toàn Nga. Một số người đề nghị ông xưng Hoàng đế của phương Đông, nhưng ông từ chối. Sau bài diễn văn của Tổng Giám mục xứ Pskov năm 1721, quan Chưởng ấn Gavrila Golovkin, đã thêm “Đại đế, Người cha của nước Nga, Hoàng đế toàn Nga” vào những tước hiệu của Peter. Vua Ba Lan August II, vua Phổ Friedrich Wilhelm I và vua Thụy Điển Fredrik I đã công nhận Peter là một Hoàng đế, nhưng các vua châu Âu khác lại không công nhận.
Theo: Long Vũ