Tôi là một thầy trừ tà, và đây sẽ là công việc cuối cùng trong đời tôi. (Phần 4)

Tôi là một thầy trừ tà, và đây sẽ là công việc cuối cùng trong đời tôi. (Phần 4)
_____________________
24/09/13

Có vẻ Eliot đang dần hoàn hồn lại. Cậu bé giờ đã nhận ra tôi là ai và ngoan ngoãn trả lời các câu hỏi, dù cổ họng nó bỏng rát do mất nước tới nỗi hầu như không thể nói chuyện.

Tôi gắng nói thằng bé biết nơi chúng tôi đang đứng và quy luật sinh tồn. Nó hiểu, ít nhất cũng tỏ ra cứng rắn hơn, mặc cho dáng vẻ nó giống hệt một đứa trẻ con tự mãn quá đà. Tôi không để đỗ lỗi cho nó: tất cả những điều từng được chứng kiến sẽ mãi mãi in hằn vết sẹo lên nó.

Eliot nói với tôi cách cả lũ đã vào đây. Đúng như dự đoán, chúng nghĩ sẽ thật ‘ngầu’ khi sở hữu vài bức ảnh của một nhà thương điên. Dĩ nhiên chúng đã không lường trước được những gì sẽ xảy ra, nhưng tôi vẫn chực trào mong muốn mắng mỏ thật thích đáng. Chúng đã nghĩ gì cơ chứ? Làm thế nào mà nơi tởm lợm này lại trở nên ‘ngầu’ vậy? Thành thật mà nói thì, bao nhiêu điều tồi tệ sẽ chẳng xảy ra nếu con người đơn giản là ngồi yên đấy thay cho việc chạy lung tung gây chuyện chỉ vì nhàm chán.

Tôi chắc mẩm Eliot đã học được một bài học, nên không khắt khe với nó nữa. Tôi không muốn nó suy sụp tới nỗi dụ toàn bộ cái trại tâm thần tới đây. Bản thân thằng bé đã là mục tiêu quá dễ dàng rồi.

Bọn trẻ phải mất hai tiếng mới nhận ra chúng đã đi lạc và thêm hai tiếng nữa để chấp nhận điều đó. Chúng đã cố gắng tìm lối ra, nhưng nơi này không thoải mái lắm: bị mắc kẹt trong một mê cung huyền bí, đối mặt với nỗi kinh hoàng mà Eliot thẳng thắn từ chối mô tả, chúng chỉ có thể phụ thuộc vào nhau. Mấy đứa bé hỗ trợ lẫn nhau, bản năng nâng đỡ chúng để không ngã khuỵu – đó là điều duy nhất bảo vệ chúng khỏi nơi này. Năm chân một bàn. Chẳng có gì ngạc nhiên khi các ‘cư dân’ ở đây muốn tách chúng ra.

Năm đứa đã ở cạnh nhau hai ngày. Trong thời gian đó, chúng đi vòng quanh các hành lang của nhà thương điên, cố gắng tìm lối ra, nhưng vô ích: giống như tôi, tất cả đi theo vòng tròn, về cùng một nơi mà chúng đã ở cách đây nửa giờ hoặc một chỗ khác, nhưng vẫn giống hệt. Eliot nói chúng cũng nhìn thấy các vết xước xuất hiện vào ban đêm. Chúng hiểu mình đang vướng phải chuyện gì, nhưng vẫn phải cắn răng mà đi tiếp.

Chúng đã làm tốt hơn tôi mong đợi. Nhằm duy trì nguồn sáng, chúng chỉ dùng duy nhất một đèn flash hòng tiết kiệm pin. Vào buổi tối, lũ trẽ luôn di chuyển, không chỉ để tránh các loại ma quỷ chưa chịu buông tha, mà còn giúp linh hồn khỏi bị chiếm giữ. Điều này có thể hiểu được, vì từng có nhiều người lính phải trải qua sự nhàm chán giữa các cuộc chiến khi xung quanh họ không có gì ngoài bức tường chiến lũy màu nâu xám xỉn và những người đồng đội thầm lặng. Gạt đi mọi khó khăn hiện tại, tôi vẫn cảm thấy chán chường đến nhức nhối.

Để chống lại tình trạng mất nước, chúng phải uống hơi ẩm, ép môi vào bức tường bẩn thỉu để hút lấy những giọt nước. Khi đi vòng qua tòa nhà, chúng cố gắng ở gần nhau nhất có thể, nắm tay và hỏi nhau xem mọi người có còn ở đó không. Cách suy nghĩ sâu sắc như vậy thật tuyệt vời, cho thấy rằng chúng hiểu sự cần thiết của việc thận trọng hơn trong tình trạng khó khăn. Thật khó để tin rằng đây là những đứa trẻ ngu ngốc đã đi khám phá trại tâm thần bỏ hoang trong đêm. Chúng không đi vào một căn phòng nào cả: có thể dễ dàng bị ngăn cách bởi cánh cửa đóng kín sau lưng, để người đầu tiên – hoặc cuối cùng – ở lại đơn độc, hoảng sợ và đối mặt với thứ dị hình sẽ không bao giờ bỏ lỡ cơ hội béo bở như vậy. Chúng chỉ ngủ vào ban ngày, thay phiên nhau canh gác để những người khác được an tâm nghỉ ngơi.

Nhưng rồi các cách phòng ngừa, các kế hoạch đều vỡ lở. Eliot nói rằng, Daisy đã mất đi đôi mắt trong lúc canh chừng. Ca gác thường kéo dài một giờ mỗi lần, để người nhận trọng trách không quá mệt mỏi – chúng thức tới hơn 20 tiếng mỗi ngày. Chúng ngủ với đôi mắt nhắm hờ cảnh giác, nên thức dậy ngay khi nghe tiếng thút thít của Daisy. Cô bé ngồi trên sàn, hướng về phía hành làng, hai đôi bàn tay giơ lên phía trước như một cử chỉ đầu hàng. Không ai nghe thấy gì: thứ đã lấy đi đôi mắt con bé hành động quá nhẹ nhàng, không có bất kỳ sự phản kháng nào và trong khi bốn người bạn của nó nằm gần đó hoàn toàn không phòng bị và mù mờ về số phận của chúng. Dấu hiệu duy nhất cho thấy sự hiện diện của thứ đó là hai dấu chân trẻ con nhuốm đầy máu chảy qua kẽ tay Daisy.

Lũ trẻ không bỏ rơi Daisy, nhưng sự kiện này khiến chúng cảnh giác hơn, đồng nghĩa với việc chúng đã bị chú ý. Mặc dù vẫn an ủi, động viên lẫn nhau, chúng bắt đầu nghe và nhìn thấy mọi thứ thường xuyên hơn: tiếng thì thầm nhỏ phát ra từ giữa nhóm, thoáng thấy ai đó nhìn trộm từ phía sau góc, bước chân nặng nề phát ra từ tầng trên. Những chi tiết nhỏ, hoàn mỹ như nghệ thuật dần làm chúng lo lắng và phá vỡ rào chắn tâm lý của chúng, mở ra con đường bằng phẳng cho những thứ không còn mong gì hơn thế.

Chúng tách nhau ra vào hai đêm trước khi các bức ảnh bị biến dạng, nên tôi đoán Eliot thực sự may mắn khi được tìm thấy: không có người lớn bên cạnh, nó sẽ sớm bị kết liễu.

Thằng bé bảo tất cả là lỗi của Tomas. Tomas nghe thấy tiếng nhạc trước nhất. Lúc đầu, chúng đều phủ nhận việc nghe thấy bất cứ điều gì, nhưng Tomas cứ khăng khăng, mặc dù điều duy nhất phá vỡ sự im lặng là giọng nói thô lỗ, ồm ồm của nó. Chúng không nói bất cứ điều gì, nhưng đều có chung một suy nghĩ: Tomas đã phát điên.

Đó là lý do khiến lũ trẻ sợ hãi hơn cả khi nghe thấy tiếng nhạc: một âm điệu không đồng đều của đàn piano truyền qua đường ống máng. Tất cả đều nghĩ rằng chúng cũng đang phát điên, hoặc sự điên rồ của Tomas đã nhập vào những bức tường bao quanh chúng và nảy nở như hạt giống rơi xuống vùng đất màu mỡ. Ai mà biết.

Âm điệu được khuếch tán ngày càng to, thật khó để xem xem nó phát ra từ đâu. Tôi có thể tưởng tượng chúng cảm thấy thế nào: giống như những người lính Macedonia trong rừng rậm Ấn Độ, những người đã nghe thấy tiếng trống gióng của kẻ thù nhưng lại không thể thấy một linh hồn mục ruỗng. Chỉ có bức tường xanh bao quanh chúng, chỉ có bóng tối cận kề và mê cung làm từ xi măng cũ kỹ, loang lổ.

Daisy đã hét bằng một âm vực vượt quá giới hạn con người. Đường ống va đập mạnh tới nỗi các bức tường bị rung chuyển, bụi rũ xuống mù mịt.Ván sàn biến dạng rồi cọt kẹt ầm ĩ. Vài gương mặt đầu tiên bước ra khỏi bóng tối cuối hành lang, hát với cái miệng mở to.

Đó là ký ức mạch lạc cuối cùng của Eliot trước khi gặp tôi. Nó chỉ nhớ vài thứ nhỏ nhặt như thể trí nhớ đã bị tách rời ra. Bằng cách thần kỳ nào đó, Daisy nắm được tay Eliot trước khi thằng nhỏ chạy mất. Trái, phải, lên, xuống lẫn lộn trong khi từng tế bào não của nó ngập tràn thanh âm của bản nhạc. Còn Tomas hòa vào cái khối nhiều đầu với đôi tay tự nguyện dang rộng.

18:00
Tôi đã tìm thấy Sarah và Peter. Cả hai đều gầy, xanh xao như bóng ma, nhưng đều sống và tỉnh táo. Chúng đều run như lá trước gió, nhưng trong khi Peter tổn thương thị giác, Sarah chỉ bị suy dinh dưỡng. Chúng hẳn đã sụt đến hàng chục cân, Peter cạn kiệt giống một cái xác tàu đắm, còn Sarah dường như vẫn ổn.

Tôi chưa bao giờ thấy ai có ý chí mạnh mẽ như vậy. Cơ thể yếu đuối của Sarah tựa như chực chờ gãy đôi bất cứ lúc nào, từ bất kỳ chuyển động nào, nhưng đồng thời, một sức mạnh vô hình nào đó giữ lấy con bé. Nó đã đạt tới giới hạn chịu đựng, nhưng tôi không nghi ngờ rằng Sarah sẽ tự thuyết phục bản thân và tiếp tục di chuyển miễn là nó cần phải ra khỏi nơi đáng lên án này. Cánh tay gầy gò, bẩn thỉu của con bé dày đặc vết bầm tím, trầy xước, và, theo tình trạng của Peter, tôi có thể giả định một cách chắc chắn rằng có nhiều cuộc chạm trán khác sau khi chúng tách khỏi nhóm. Con bé chưa bị suy nhược bởi các trải nghiệm, mà chỉ cứng cáp lại, sắc bén hơn để sẵn sàng đương đầu với thử thách tiếp theo. Nó là hiện thân của lưỡi gươm Phù Tang tinh xảo đã được tôi luyện hàng ngàn lần để mang lại độ bền siêu nhiên. Khả năng vượt xa một người đàn ông trưởng thành, thậm chí tôi còn thấy an toàn hơn khi được ở cạnh Sarah. Rốt cuộc, chúng tôi đã có hai chiến binh. Rõ ràng việc Peter còn sống chỉ nhờ vào nỗ lực của con bé.

Nhưng tất cả chúng tôi đều đã đạt tới giới hạn. Tôi chưa ăn uống gì trong ba ngày, và bọn trẻ thì còn lâu hơn thế. Trời sắp tối, nên tôi phải nhanh chóng viết ra tất cả. Những ghi chú này phải được đưa ra khỏi thế giới ngoài kia, cảnh tỉnh những người khác. Đừng đi vào đây.

Chúng tôi không còn nguồn sáng, vậy nên đây có thể là đêm cuối cùng. Nhưng cùng với Sarah, tôi hy vọng tất cả đều có thể vượt qua. xem xét qua các vết thương của con bé, hẳn nó đã chiến đấu với lũ quỷ ít nhất một lần, vì vậy tôi chỉ giải thích những điều cơ bản cho nó rồi tiếp tục đi. Chúng tôi sẽ ra khỏi đây tối nay hoặc ở lại mãi mãi.

——-
(Trang này được lấp đầy bằng các câu chữ vô nghĩa và thấm đẫm máu)
——-

Đi thôi.
Tôi biết phải làm gì rồi.
_____________________
Link Reddit: https://redd.it/515ok6
_____________________
Bài đăng của bạn Lý Phương Dung trong group:
https://www.facebook.com/groups/rvn.group/permalink/506452823598264
[Image by: @morgondagen/tumblr]

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *