NƯỚC NGA ĐÃ TỪNG KHIẾP SỢ DÂN DU MỤC TATARS TỪ BÁN ĐẢO CRIMEA NHƯ THẾ NÀO? (phần 2)
Trong các công trình phòng thủ mà những cộng đồng cư dân nông nghiệp xây dựng để chống lại các cuộc đột kích cướp bóc của dân du mục man rợ, nổi tiếng nhất có lẽ là Vạn Lý Trường Thành, bức tường thành dài hơn 6.000 km được các triều đại phong kiến Trung Quốc xây dựng để ngăn chặn kỵ binh du mục tấn công từ phương bắc. Ít ai ngờ rằng nước Nga phong kiến cũng từng xây dựng một hệ thống phòng thủ dài hàng trăm km từ Bryansk đến Ryazan dọc theo sông Oka để chống lại dân du mục, nhưng là từ hướng nam. Việc xây dựng được hoàn thành vào năm 1566 dưới thời Sa hoàng Ivan Bạo chúa.
BỨC TRƯỜNG THÀNH CỦA NƯỚC NGA
Từ thế kỷ XVI, chính quyền Nga dưới thời Ivan Bạo Chúa đã bắt đầu nỗ lực để xây dựng một hệ thống phòng thủ kéo dài hàng trăm km nhằm ngăn chặn các vụ đột kích của kỵ binh Tatars. Xây dựng cũng như duy trì các tuyến phòng thủ và quân đội dọc biên giới thảo nguyên rộng lớn, nơi gần như không có rào cản tự nhiên rất tốn kém và là gánh nặng cho nhà nước, đòi hỏi một phần đáng kể ngân sách quốc gia nhưng đây là khoản chi không thể tránh khỏi. Ngoài ra các Sa hoàng còn thu thêm một loại thuế để chuộc những người bị quân Tatars bắt cóc với giá từ 50-200 rúp tùy người.
Các hàng rào phòng thủ trải dài hàng trăm km từ rừng Bryansk đến Pereyaslavl-Ryazan và phần phía đông nam của nó trải dài từ Skopin đến Shatsk.
Trong những năm 1630-1650, tuyến phòng thủ Belgorod được xây dựng chạy 300-400 km về phía nam của các tuyến phòng thủ trước đó. Tuyến phòng thủ bao gồm các cấu trúc phức tạp như pháo đài lẫn các chướng ngại vật tự nhiên (đầm lầy, rừng, sông). Chiều dài của tuyến phòng thủ là 600 km, lên tới 800 km nếu bao gồm cả các khúc quanh uốn lượn theo địa hình.
Trong những năm 1679-1681, người Nga tiếp tục xây dựng phòng tuyến Izyumskaya với chiều dài 530 km (cách tuyến Belgorod 150-200 km về phía nam) và trong những năm 1680 ở Trung Volga là phòng tuyến Syzranskaya . Năm 1731-1733, phía nam của phòng tuyến Izyumsky, phòng tuyến Ukraine tiếp tục được thiết lập với tổng chiều dài là hơn 400 km bao gồm 16 pháo đài mới được xây dựng
Khi xây dựng các tuyến phòng thủ mới, hiệu quả của các cuộc tấn công từ dân du mục Tatars ở Crimea giảm xuống rõ rệt bởi vì chúng không thể xâm nhập sâu vào lãnh thổ. Phòng tuyến không thể cản quân Tatars âm thầm vượt qua trong đêm nhưng sẽ gây ra nhiều phiền phức khi chúng rút lui cùng với hàng đoàn nô lệ, từ đó cho phép những người bảo vệ có thêm thời gian để truy đuổi chúng, ngăn chúng rút lui an toàn cùng với chiến lợi phẩm. Kỵ binh Tatars sau này thường trở về từ các chiến dịch mà không có chiến lợi phẩm gì. Ngoài ra người Tatars không có đủ súng đã chịu tổn thất lớn trước các quân đội châu Âu và Nga với trang bị hiện đại hơn. Nước Nga dần dần đã quá mạnh để kỵ binh du mục có thể cướp bóc.
Thời đại của các cuộc tấn công nô lệ lớn ở Nga và Ukraine đã dần đến hồi kết thúc, mặc dù những kẻ đột kích vẫn tiếp tục các cuộc tấn công của họ và sự thù hận của Nga đối với Crimea Hãn quốc không hề suy giảm theo thời gian.
Trong nửa đầu của thế kỷ XVII, người Kalmyk gốc Mông Cổ đã thành lập Kalmyk Hãn quốc ở phía Bắc dãy núi Kavkaz. Là những tín đồ Phật giáo Tây Tạng, dân Kalmyk là kẻ thù tự nhiên của Crimea Hãn quốc và người Ottoman theo Hồi giáo. Người Kalmyk là một đồng minh quan trọng của Đế quốc Nga và kỵ binh Kalmyk đã tham gia tích cực vào tất cả các chiến dịch của Nga trong thế kỷ XVII và XVIII, cung cấp hàng chục ngàn kỵ binh được trang bị đầy đủ.
NƯỚC NGA VÀ QUÂN ĐỘI KIỂU MỚI CỦA PYOTR ĐẠI ĐẾ
Trước thế kỷ XVIII, trong suốt hàng trăm năm nước Nga chỉ có một đạo quân lạc hậu, được huấn luyện kém cỏi và nghiệp dư theo kiểu tương tự các đạo quân châu Á để bảo vệ đường biên giới bao la của nó. Khi Sa hoàng Pyotr cầm quyền những năm cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII đã quyết tâm hiện đại hóa nước Nga, nhất là về quân sự. Khi qua đời năm 1725 ông đã để lại một đội quân gồm 200.000 người – bảy tiểu đoàn Cận vệ, năm mươi trung đoàn bộ binh và ba mươi trung đoàn kỵ binh. Ngoài một vài đơn vị khinh kỵ binh thì phần còn lại chủ yếu là quân đồn trú. Đến năm 1730, ba trung đoàn thiết kỵ binh đã được thành lập và mười bốn trung đoàn dân quân để bảo vệ các đường biên giới Ukraine chống lại dân du mục. Đến năm 1740, Sa hoàng Nga có 240.000 binh sĩ dưới quyền, và vào năm 1750 là 270.000 – không kể hơn 50.000 quân không thường trực, chủ yếu là người Cossacks và Kalmyks. Mặc dù quân đội đã phát triển quy mô nhưng về cơ bản, nước Nga không thể huy động nhiều hơn 120.000 trong mỗi chiến dịch vì binh lính phải chia ra đóng giữ lãnh thổ quá lớn
NGA THÔN TÍNH CRIMEA HÃN QUỐC
Các cuộc đột kích của người Tatars ngày càng yếu ớt và người Nga bắt đầu phản công. Năm 1735 chiến tranh với Ottoman và đồng minh Crimea Hãn quốc bùng nổ. Ngày 20 tháng 5 năm 1736, 62.000 quân Nga dưới sự chỉ huy của nguyên soái người Đức Christoph von Münnich (1683 – 1767) đã chiếm pháo đài tại eo đất Perekop nối đất liền tới bán đảo Crimea và vào ngày 17 tháng 6 chiếm Bakhchysarai trong khi một đạo quân Nga 28.000 người dưới quyền của viên tướng người Ailen Peter von Lacy (1678 – 1751) cũng chiếm pháo đài của quân Ottoman ở Azov, mở được con đường thông ra Hắc Hải. Quân Tatars đã bao vây lực lượng xâm lược ngay khi nó vượt qua eo đất Perekop nhưng các trung đoàn Nga được huấn luyện kỹ lưỡng đã mau chóng hình thành đội hình ô vuông để bẻ gãy các đợt tấn công của kỵ binh du mục và hành quân thẳng đến thủ đô Bakhchysarai.
Mặc dù thành công trên chiến trường nhưng sự bùng phát của dịch bệnh kết hợp với nguồn cung hậu cần không đủ khiến quân Nga phải rút lui. Một phần ba quân đội đã ngã bệnh và phần còn lại đã kiệt sức vì cái nóng. Năm 1737, thành cổ Ochakov của Thổ Nhĩ Kỳ trên cửa sông Dnieper đã bị quân Nga chiếm và các công sự của nó đã bị phá hủy. Tám mươi hai khẩu pháo bằng đồng rơi vào tay người Nga. Tuy nhiên, gốc rễ của vấn đề, theo một sĩ quan có kinh nghiệm, không phải là kẻ thù. ‘Người Thổ Nhĩ Kỳ và người Tatars là những gì [quân đội] ít sợ nhất; đói, khát, trừng phạt, mệt mỏi liên tục, những cuộc hành quân trong cái nóng mạnh nhất của mùa hè đã gây tử vong nhiều hơn’. Và sau đó bệnh dịch hạch bùng phát trong quân đội tại Ochakov năm 1738 và nhanh chóng lan sang Ukraine. Không có gì ngạc nhiên khi vào cuối chiến dịch mỗi trung đoàn đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng, một số đến 50%.
Chiến dịch Crimea đã kết thúc khi Nga rút về Ukraine với 30.000 người thiệt mạng, chỉ 2.000 người do các nguyên nhân liên quan đến chiến tranh và phần còn lại là do bệnh tật và nạn đói.
Sau cuộc chiến tranh với Thổ năm 1774 với chiến thắng thuộc về Nga, người Thổ đã phải ký hiệp ước chấp nhận Crimea Hãn quốc trở thành một quốc gia độc lập khỏi Ottoman và Crimea chuyển sang thần phục Nga hoàng. Người Tatars ở Crimea không có mong muốn độc lập và giữ một tình cảm gắn bó mạnh mẽ với Đế chế Ottoman. Trong vòng hai tháng kể từ ngày ký hiệp ước, chính phủ của Hãn quốc đã phái sứ thần đến Ottoman, yêu cầu họ “hủy các điều kiện độc lập” tuy nhiên, Ottoman đã bỏ qua yêu cầu này vì không muốn vi phạm thỏa thuận với Nga.
Việc gì đến rồi cũng phải đến, tháng 4/1783 Nữ hoàng Ekaterina II công bố quyết định sáp nhập Crimea.trở thành một tỉnh thuộc đế quốc Nga với tên gọi là Taurida. Kể từ đây, các cuộc cướp bóc nô lệ của Crimea Hãn quốc mãi mãi chỉ còn là quá khứ.