NỮ NHÂN NỔI TIẾNG TRONG LỊCH SỬ PHONG KIẾN VIỆT NAM

Trong dòng chảy lịch sử đầy vẻ vang và tự hào của dân tộc Việt Nam, phụ nữ luôn đóng một vai trò trọng yếu. Ở thời đại nào cũng có những người phụ nữ tài trí, bản lĩnh, kiên cường, luôn nêu cao tinh thần và phát huy truyền thống “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Tìm hiểu những câu chuyện về họ cũng là cách chúng ta cùng ôn lại lịch sử hào hùng của dân tộc, của phụ nữ Việt Nam và cùng nhau tiếp nối, phát huy truyền thống quý báu đó. Dưới đây là một số câu hỏi về những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử phong kiến Việt Nam theo nguồn của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Các bạn hãy cùng Chuyện Hậu Cung tìm hiểu nhé.

1/ Nữ vương đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta? 

Đó là Bà Trưng Trắc (14 – 43), người phụ nữ mạnh mẽ dám đứng lên dựng cờ khởi nghĩa chống lại nhà Hán. Trong sử sách, Bà được biết đến là thủ lĩnh khởi binh chống lại chính quyền đô hộ của Đông Hán, lập ra một quốc gia với kinh đô tại Mê Linh và xưng vương. Thời kì của Bà xen giữa Bắc thuộc lần 1 và Bắc thuộc lần 2 trong lịch sử Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư coi Trưng Trắc là một vị vua trong lịch sử, với tên gọi Trưng Nữ vương.

2/ Nữ hoàng duy nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam?

Là nữ hoàng đầu tiên và cũng là duy nhất trong lịch sử vương triều phong kiến Việt Nam, song Lý Chiêu Hoàng (Chiêu Thánh) ở ngôi báu chỉ hơn một năm nên sách sử khi viết về bà chỉ đề cập đến với những dòng sơ lược khiến hậu thế ít biết về cuộc đời lắm nỗi truân chuyên của bà. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Chiêu Hoàng sinh năm Mậu Dần (1218), là con gái vua Lý Huệ Tông và Hoàng hậu Trần Thị Dung. Khi bà chào đời, nhà Lý (1009-1225) đã vào thời kỳ suy tàn. Chiêu Hoàng lúc đó mới 7 tuổi, hạ giá lấy Trần Cảnh, nhường ngôi cho chồng và được phong làm hoàng hậu, gọi là Chiêu Thánh. Sau nhiều biến cố, bà bị giáng xuống làm công chúa. Từ khi sinh ra cho đến khi từ biệt cõi đời, với bao biến cố đã khiến bà trở thành một người có số phận lạ lùng nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với 7 lần ở những danh vị khác nhau: Công chúa triều Lý, Hoàng Thái nữ nhà Lý, Nữ Hoàng đế nhà Lý, Hoàng hậu nhà Trần, Công chúa nhà Trần, Ni cô (thời Trần) và Phu nhân tướng quân nhà Trần.

3/ Nữ chủ bút (nay gọi tổng biên tập báo) đầu tiên ở Việt Nam ?

Đó là bà Sương Nguyệt Anh, tên thật là Nguyễn Xuân Khuê (có tài liệu ghi là Nguyễn Ngọc Khuê), tục danh Năm Hạnh, thuở con gái lấy hiệu là Nguyệt Anh. Bà sinh ngày 01/2/1864 tại làng An Bình Đông, nay là xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Bà là con gái thứ năm của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Ngày 01/2/1918, báo “Nữ giới chung” – tờ báo đầu tiên ở nước ta chú trọng đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán luật lệ khắt khe đối với nữ giới thời đó, đồng thời chủ trương đấu tranh mạnh mẽ cho vấn đề bình đẳng nam nữ – ra số đầu tiên và bà Sương Nguyệt Anh chính thức trở thành nữ chủ bút báo đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam. Bà không những có vai trò to lớn trong việc làm thức tỉnh và cổ vũ các độc giả nữ trước thời thế mới mà còn làm đa dạng, phong phú, hoàn thiện thêm nền báo chí non trẻ của Việt Nam khi đó, đồng thời tạo tiền đồ tốt cho hàng loạt báo chí về phụ nữ sau này xuất hiện như “Phụ nữ tân văn”, “Phụ nữ thời đàm”.

3/ Nữ Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam 

Đó là bà Nguyễn Thị Duệ, nữ Tiến sĩ đầu tiên của Việt Nam. Hiện chỉ biết bà sống vào cuối thế kỉ 16, đầu thế kỉ 17, chưa rõ năm sinh và mất. Nguyễn Thị Duệ, quê huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, là một người hiếu học, song luật lệ bấy giờ không cho phép con gái được học hành thi cử, Nguyễn Thị Duệ phải giả trai để dự việc đèn sách. Khoa thi tiến sĩ năm Giáp Ngọ (1594) bà mang tên giả là Nguyễn Du đi thi và đỗ đầu khi tuổi vừa 20. Đến khi mở yến tiệc chiêu đãi các tân khoa, vua Mạc Kính Cung thấy vị tiến sĩ trẻ dáng vẻ mảnh mai, mặt mày thanh tú… nên dò hỏi. Khi đã rõ chuyện, Nguyễn Thị Duệ không bị khép tội mà còn được vua khen ngợi… Sau đó, vua mời bà vào cung để dạy các phi tần, rồi được tuyển làm phi: Tinh Phi (Sao Sa) và người ta quen gọi là “Bà Chúa Sao”. Năm 1625, quân Lê – Trịnh tiến lên Cao Bằng diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ vào rừng ẩn náu, bị quân lính bắt được. Mến tài, vua Lê và chúa Trịnh vẫn cho bà trông coi việc dạy học trong vương phủ… Khi mất, người dân địa phương lập đền thờ, tôn bà làm phúc thần.

4/ Bà tổ nghề may là ai?

Đó là bà Nguyễn Thị Sen sinh ra và lớn lên ở làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, trấn Sơn Tây. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Vua Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông, trong đó tứ phi Hoàng Hậu Cồ Quốc chính là Thánh tổ nghề may Nguyễn Thị Sen. Vào năm Kỷ Mão (979) Vua Đinh Tiên Hoàng bị gian thần sát hại. Buồn chán trước cảnh triều đình rơi vào binh đao tranh quyền, đoạt vị, bà đã đưa các con từ giã Hoàng cung trở về làng Trạch Xá quê hương. Tại đây, bà đã mang nghề may trong cung truyền dạy cho dân làng và từ đó nghề may phát triển đời này nối tiếp đời sau, đến nay đã được hơn ngàn năm. Bà mất vào ngày 12 tháng Chạp. Để con cháu muôn đời biết về công đức của tiền nhân, người dân làng Trạch Xá đã lập đền thờ suy tôn bà là Đức Thánh Tổ nghề may và tổ chức lễ hội giỗ tổ vào ngày 12 tháng Chạp âm lịch hàng năm.

5/ Bà tổ nghề gốm Chu đậu là ai?

Đó là bà Bùi Thị Hý, quê tại huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nổi danh từ thế kỷ 15 khi đưa Gốm Chu đậu rạng danh khắp nơi trên Thế giới, bà Bùi Thị Hý, bà tổ nghề Gốm Chu Đậu, cũng là nữ doanh nhân tài hoa đầu tiên của Việt Nam, đã tạo ra những di sản vô cùng to lớn để thế hệ doanh nhân Việt ngày nay tiếp tục phát triển dòng gốm cổ với hàng trăm năm lịch sử, “mang bản sắc Việt tỏa sáng khắp năm châu”. Gốm Chu Đậu dưới bàn tay tài hoa của bà Bùi Thị Hý có những nét đặc trưng riêng của Chu Đậu và cũng là những nét đặc sắc của người Việt thể hiện ở màu men và họa tiết mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Mỗi sản phẩm đều chứa đựng thông điệp nhiều ý nghĩa, mong muốn của người nghệ nhân cho cuộc sống hạnh phúc và thành đạt. 

6/ Bà tổ nghệ thuật hát chèo tại Việt Nam là ai ?

Đó là bà Phạm Thị Trân sinh năm 926, mất năm 976 hiệu là Huyền Nữ. Bà là một nữ nghệ sĩ thời nhà Đinh trong lịch sử Việt Nam. Bà là được tôn là bà tổ của nghệ thuật hát chèo. Cho đến nay, hát chèo vẫn là một trong những loại hình nghệ thuật chiếm giữ một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa người dân Việt Nam. Hàng năm cứ đến ngày 12/8 âm lịch, ngành sân khấu Việt Nam lại tổ chức giỗ Bà tổ của nghề hát chèo. Vào đầu xuân, nhân dân châu thổ sông Hồng lại tổ chức hội làng, trong đó hát chèo giữ một vai trò quan trọng, là linh hồn không thể thiếu của ngày hội.

7/ Bà tổ nghề dệt vải tại Việt Nam là ai?

Đó là bà Nguyễn Thị La, sống ở thế kỷ XII, dưới thời nhà Lý. Tương truyền, bà có nhan sắc khuynh thành, giỏi nghề thêu dệt. Sau kết duyên cùng một người thợ dệt lành nghề, sau đỗ đạt làm quan và cùng vợ mở phường thủ công ở đất làng Nhược Công. Cuối thời nhà Lý, hai vợ chồng bà mất. Bà được phong là Thụ La Công chúa, được tôn làm bà tổ nghề dệt vải ở kinh đô.  Đình Nhược Công, nay là Đình làng Thành Công là nơi thờ vọng vị quan họ Đoàn thời Lý và bà tổ nghề dệt Nguyễn Thị La (thờ hai vợ chồng bà). 

8/ Người phụ nữ được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” là ai?

Đó là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, bà sinh vào khoảng cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà là nữ sĩ tài hoa, nổi tiếng với nhiều sáng tác thơ Nôm trào phúng.  Bà được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm không chỉ bởi số lượng tác phẩm mà còn vì nghệ thuật điêu luyện với ý tưởng sâu sắc. Một nhà nghiên cứu đã nói về thơ bà “Thơ Nôm Hồ Xuân Hương lừng lững biểu hiện một cách sinh động trực quan khả năng giàu có mà hiểm hóc đến mức kỳ lạ của ngôn ngữ dân tộc”.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *