Những nhầm lẫn về Le Labo

A. Những nhầm lẫn về Le Labo

1. Cứ thấy kenh14 lên bài Hồ Ngọc Hà mặc gì là biết sắp có một đống hàng fake đang chờ sẵn tung ra thị trường.

Tương tự, thấy celeb chụp hình Le Labo là biết một đống FAKE tung ra thị trường rồi đó.

2. Quy trình chuẩn cũ của Le Labo như này

Bạn đến cửa hàng.

Đặt hàng chai và đề nghị in tên.

Nhân viên chính hãng lấy nước cốt ra pha với dung môi cho bạn trên cân. Nếu có khác nhau giữa các mẻ (batch variation) thì nằm ở đây. Tuy nhiên, nước cốt là giống nhau.

Nhân viên của hãng in nhãn chai, nhãn hộp. Nhân viên cho chai vào hộp, niêm phong hộp.

Phía trên là quy trình “chuẩn” từ 2006 đến 2016.

Sau khi Estée Lauder mua Le Labo và cắm vào quy trình và hệ thống phân phối của Estée Lauder, thì quy trình đại trà hơn.

Nói “chuẩn” không có nghĩa là duy nhất. Có nhiều người bán có các cách khác để lấy hàng.

3. Nhầm lẫn về San Francisco

Có một đợt hàng FAKE ghi làm tại San Francisco. Thế là có một đống tung tin đồn là “không có cửa hàng ở San Francisco”.

Kiểm tra 1: Le Labo có chai Limette 37 là San Francisco City Exclusive. City Exclusive chỉ bán tại cửa hàng tại đúng thành phố của nó trong các tháng 1 đến 8, 10 đến 12. Không có cửa hàng ở San Francisco thì làm sao hãng bán chai Limette 37 hả các thánh tung tin đồn?

Kiểm tra 2: Thì Google là ra chứ gì

4. Nhầm lẫn về mùi cay trong Rose 31

Nhầm lẫn: HẠT tiêu.

Thông tin đúng: Cái mùi cay trong Rose 31 KHÔNG phải là tiêu, KHÔNG phải là HẠT. Mùi cay đấy là từ pinkpepper. Pinkpepper là QUẢ khô từ cây Schinus molle.

Hạt tiêu đen là species Piper nigrum, thuộc genus Piper, thuộc family Piperaceae, thuộc order Piperales, thuộc clade Magnoliids.

QUẢ tiêu hồng là species Schinus molle, thuộc genus Schinus, thuộc family Anacardiaceae, thuộc order Sapindales, thuộc clade Rosids, thuộc clade Eudicots.

2 loài trên cách xa nhau khủng khiếp.

QUẢ tiêu hồng khô có mùi cay, thế thôi.

Rose 31 là QUẢ tiêu hồng.

5. Nhầm lẫn về Baie Rose 26

Baie Rose KHÔNG phải là rose. Baie Rose là tiếng Pháp của tiêu hồng.

Chai đó mùi QUẢ tiêu hồng. Không phải hoa hồng.

QUẢ tiêu hồng là species Schinus molle, thuộc genus Schinus, thuộc family Anacardiaceae, thuộc order Sapindales.

Hoa hồng là genus Rosa, thuộc tribe Roseae, thuộc subfamily Rosoideae, thuộc family Rosaceae, thuộc order Rosales.

Tính ra, [tiêu hồng gần hoa hồng] hơn [tiêu hồng gần tiêu đen].

6. Trà trong Thé Noir 29

Nhầm lẫn: Thé Noir là trà xanh.

Có 6 cách rang trà chính. Trong đó, oxy hoá hoàn toàn ra trà đen, oxy hoá bán phần ra trà xanh.

Noir là đen, Thé Noir là hồng trà.

Về trà uống, hồng trà oxy hoá hoàn toàn và chịu được nhiệt, hương liệu, vận chuyển. Vì thế, các loại trà pha hương liệu thì dùng hồng trà chịu đựng tốt nhất.

Ngoài ra, vì hồng trà chịu đựng tốt nên các cách rang hồng trà có thể dùng cho các trà nằm ngoài Trung Quốc. Cụ thể là Ấn, Pakistan, Sri Lanka. Anh thèm trà, mà kiểm soát Ấn dễ hơn Trung Quốc, nên trồng trà ở Ấn.

Trà xanh chịu hương liệu kém. Thứ chịu được hương liệu kém hơn trà xanh là bạch trà. Hương vị của trà xanh là do vùng đất trồng. Vùng đất trồng trà xanh ra vị ngon nhất là Tây Hồ, Hàng Châu.

Nước hoa mùi trà mô phỏng mùi trà uống, nên sẽ thấy các chai mùi thé noir, black tea nhiều nhất.

Cả chủ hãng dưỡng da cũng nhầm mà.

Matcha là một cách làm trà xanh. Trà xanh là một cách rang lá trà.

Phải là lá của cây Camellia sinensis mới là trà.

Trà đỏ = trà rooibos là từ cây Aspalathus linearis, đúng định nghĩa thì không phải là trà.

Nhưng vẫn quen gọi là trà rooibos.

Có chủ hãng đặt tên Rooibos Matcha. Giở sản phẩm ra thấy toàn rooibos, không có matcha. Chủ hãng nhầm tưởng danh từ matcha nghĩa là trà.

7. Nước hoa “tươi”

Có người bán lan truyền tin sai rằng Le Labo là “nước hoa tươi”.

Thông tin đúng:

a. Các chai pha tại chỗ: Hãng gửi nước cốt đến cửa hàng. Pha chỉ là pha nước cốt vào dung môi. Nước cốt cũng y như các nước hoa thành phẩm.

b. Không có gì đảm bảo chai pha tại chỗ thì nước cốt là tươi.

c. Nước hoa thành phẩm và nước cốt Le Labo đều phải trải qua một thời gian ủ để các chất có thời gian phản ứng vừa đủ với nhau. Thời gian ủ thường vài tháng.

d. Không có vụ “nước hoa tươi” đâu nhé.

e. Còn nước hoa “natural”. Tác giả đã ngửi 4 nhà natural và tất cả đều thúi nên đã bỏ test mấy thứ tuyên bố “natural” rồi.

8. Cứ quen thói cắt bớt tên chai chỉ nói số.

* Nói “bán cho em chai 18” thì shop thu tiền giá Bigarade 18 Hong Kong rồi ship chai Labdanum 18 cho nha.

* Nói “bán cho em chai 19” thì shop thu tiền giá Benjoin 19 Moscow rồi ship chai Baie 19 cho nha.

* Nói “bán cho em chai 25” thì shop thu tiền giá Musc 25 Los Angeles rồi ship chai Tonka 25 cho nha.

* Không chịu được mùi thúi mà nói “bán cho em chai 27”, hí hửng chờ mùi hoa thì nhận được chai thúi rùm nha.

* Không chịu được mùi thúi mà nói “bán cho em chai 28”, hí hửng chờ mùi chanh thì nhận được cục bì Trung Đông ăn với cơm tấm nha.

Bài cũ post lại 

B. Lại review GẦN HẾT nhà Le Labo đến 2020.

1. Rose 31

Có những thứ gây tranh cãi tiêu cực.

Còn Rose 31 gây tranh cãi tích cực.

* Perfumer Daphne Bugey làm Rose 31 kỹ, thử nghiệm đủ mọi tổ hợp chỉnh hợp đến mức chủ hãng Le Labo phải cản lại là “tém tém, hàng ngon lắm lắm rồi, không cần thêm nữa đâu”. À nói về Daphne Bugey, dấu ấn của bà rất rõ rệt. Các chai bà làm cho Le Labo có những điểm đặc trưng (signature) không thể tìm thấy ở đâu khác.

* Lên da người này thì ra hồng, da người khác thì ra gỗ. Lên da tác giả ra lần lượt: guiacwood, pinkpepper, xạ, rồi mới tới hồng. Phải nói trước là hầu hết các món có guiacwood lên da tác giả đều bật hay lên; pink pepper và white musk cũng vậy (nói white musk là thể loại white musk trong nhiều loại musk, không phải chỉ riêng chai tên “White Musk”) nên ra thế.

* Có sự khác nhau giữa các mẻ (batch variation). Có batch ra nhiều gỗ, có batch ra nhiều hồng, có batch ra nhiều phấn. Hầu hết các trường hợp sự khác nhau giữa các mẻ (batch variation) tiêu cực. Nhưng batch variation ở Rose 31 hay ở chỗ mọi mẻ đều hay.

Giá web $280 100ml chưa thuế bang Mỹ (state sales tax), shipping. Tham khảo thôi, không bán.

2. Mousse de Chêne 30 chỉ có ở Amsterdam

Chai này vọt bắn lên vị trí thứ 2 vì lạ và hay.

* Lạ 1: Rõ ràng là mùi hoắc hương patchouli. Tinh dầu patchouli chưa pha ra thành phẩm rất nồng, rất thách thức. Các món patchouli chủ đạo thường mô phỏng mùi đất nồng ẩm, mùi cây theo kiểu rất thú. Mousse de Chêne 30 Amsterdam là patchouli mà lại mượt mà, thậm chí ngọt, mà không phải ngọt ngấy gourmand mà ngọt gỗ. Lạ và hay.

* Lạ 2: À vẫn là vụ tên một đằng, mùi một nẻo. Tên rêu (moss) nghĩa là tinh dầu rêu chiếm khối lượng cao nhất trong thành phẩm, mà mùi patchouli chủ đạo.

* Lạ 3: Tên moss, ra patchouli chủ đạo, mà hay hơn tất cả những chai moss hay ho tác giả đã tìm được như: Sir Irisch Moos, Acca Kappa Muschio Bianco Eau de Cologne.

Giá web chưa thuế bang Mỹ (state sales tax), shipping. Tham khảo thôi, không bán.

$480 100ml, $315 50ml, $132 15ml, $12 1.5ml.

3. Limette 37 chỉ có ở San Francisco

Mùi đúng tên rồi đó, chanh. Một chai nước chanh cũng lạ lùng.

Chanh (lime) xuất phát từ Đông Nam Á, lại được làm để miêu tả mùi SF.

Rất ít chai làm ra chanh hay. Món này làm ra hay và xuất sắc.

Chanh rất đậm đà. Lên da lại còn bật lên mùi gỗ phảng phất đằng sau background nữa.

Cách pha làm món này bám và toả rất tốt.

Không hề ra mùi nước rửa chén, mà hay hơn rất nhiều.

À phải nói luôn là da tác giả tôn mùi citrus rất tốt, nên nhiều citrus lên da thì hay, và tất cả các citrus của Le Labo lên đều giữ được mười mấy tiếng.

4. Bergamote 22

Trong nhóm cam chanh (citrus) làm mùi hương, Bergamot đặc biệt.

Mùi Bergamot the đặc trưng và dễ chịu.

Bergamot không bị the ngái như một số cách làm bạc hà.

Bergamot không bị lạm dụng quá nhiều làm nước rửa chén như chanh xanh (lime) hay chanh vàng (lemon).

Ít khi thấy Bergamot bị làm ngái quá gắt đến hỏng cả mùi như vỏ cam (orange peel) bị.

Bergamot có sắc sảo hơn Yuzu.

Bergamot không quá khó làm như mùi NƯỚC cam (orange juice). Ví dụ nước cam: Atelier Orange Sanguine.

Bergamot không nhàm chán như Citron.

Cứ làm Bergamot chủ đạo, thì kiểu gì cũng ở tầm chấp nhận được, không đến nỗi dở.

Và Le Labo Bergamote 22 là vua bergamot.

Le Labo Bergamote 22 phát huy hết mọi cái hay của bergamot. Có sắc. Có the cay nhưng không quá.

Bám rất dai. Trên da tác giả bám 8-12 tiếng, không bị chết ỉu như da nhiều bạn than phiền. Lưu ý quan trọng là da tác giả làm mọi mùi citrus hay hơn và bám dai.

Bergamot vẫn luôn thoang thoảng ngay cả khi xuống base.

Mùi cực kỳ hợp khí hậu nóng ẩm.

Nam nữ dùng được tuốt.

Bergamot ngon nhì là The Different Company Bergamote.

Sau đó nữa là Atelier Bergamote Soleil.

Nhưng không cần quan tâm đâu. Đã bảo da tác giả làm citrus hay hơn nên tác giả test citrus nhiều lắm rồi. Le Labo Bergamote 22 là trùm mớ bergamot.

5. Ylang 49

Là hoàng lan mọc trên gỗ. Lên da trai lại dậy lên mùi gỗ hay.

Gỗ + hoa đậm đà, mượt mà.

Có mùi ngọt của hoa, nhưng không quá gắt.

6. Thé Noir 29

Lại chơi nhau rồi. Tên là hồng trà, mà mùi gỗ.

Lên da tác giả ra: gỗ chính, thuốc lá, cỏ khô, vétiver.

Twist ở chỗ không phải miêu tả hồng trà trực diện, mà là gợi nhớ (pay homage to) một món hồng trà pha hương liệu blended black tea.

Có một tí u tối, và hay.

Hay hơn hẳn Masque Milano Russian Tea, Pierre Guillaume 12 Hyperessence Matale. Khác biệt những cách pha nước hoa trà kiểu hoa / quả khác.

7. Baie Rose 26 chỉ có ở Chicago

Baie rose KHÔNG phải hoa hồng đâu nha. Baie rose là tiêu hồng (pinkpepper). Tên là tiêu hồng, nhưng chả liên quan gì tiêu đen. Baie rose là Schinus molle, thuộc family Anacardiaceae, thuộc order Sapindales, thuộc clade Rosids, thuộc clade Eudicots. Tiêu đen là Piper nigrum, thuộc family Piperaceae, thuộc order Piperales, thuộc clade Magnoliids. Baie rose là trái khô từ một cây có-vẻ-giống berry. Mặc dù vậy, baie rose được gọi là pink pepper vì có vị cay cay gần giống tiêu đen.

Nhưng mà tiêu hồng hay hơn tiêu đen nhiều.

Baie Rose 26 Chicago là một mùi pinkpepper hay ho chuẩn mực. Cái pinkpepper ngửi ra trong Rose 31 cũng chính là mùi được thể hiện lại trong Baie Rose 26 Chicago đấy.

8. Citron 28 chỉ có ở Seoul

Trái citron (citrus medica) xuất phát từ phía Tây dải Himalaya, tính địa lý thì thuộc Ấn, lại làm để miêu tả Seoul.

Cốc nước chanh đường dịu hơn Limette 37 San Francisco.

Ban đầu thấy dịu hơn Limette 37 nên tưởng không ấn tượng, nhưng wear lên người rồi cứ ngửi mãi chỗ ấy.

Gây thương nhớ nhiều.

9. Gaiac 10 chỉ có ở Tokyo

Mùi đúng tên, guaicwood. Một mùi được miêu tả là zen, trầm mặc.

À có nhầm lẫn chỗ tên gọi này. Tinh dầu guaiac lại được chưng hơi từ cây palo santo (Bulnesia sarmientoi) ở Nam Mỹ; lại không phải từ cây guaiac (Guaiacum oficianle) ở Trung Mỹ.

Mà cả 2 cây đều đang bị đe doạ Endangered nha.

10. Vetiver 46

Vetiver 46 có chỗ đứng riêng trong những chai vétiver hay. Vetiver 46 khô, cảm giác như bìa carton khô ấy.

11. Benjoin 19 chỉ có ở Moscow

Nói “19” thì coi chừng lộn Benjoin 19 Moscow 2013 với Baie 19 2019.

Benjoin 19 Moscow là mùi olibanum thâm trầm, nhẹ nhàng, inoffensive.

Cái olibanum / frankincense thường được đốt trong nhà thờ ấy.

Kiểu olibanum chủ đạo này thì có Profvmvm Roma Olibanvm 2006, Les Liquides Imaginaires Sancti 2011 làm rồi. Benjoin 19 Moscow thì nhẹ nhàng hơn.

12. Fleur d’Oranger 27

Hoa cam (orange blossom, neroli) rất khó làm. Làm không hay thì ra bị ngấy khủng khiếp. Nên nói đến mùi hoa cam thì nên chuẩn bị tinh thần là nó nồng.

Fleur d’Oranger 27 thì lại dễ chịu, mượt mà.

Fleur d’Oranger 27 là chai hoa cam hay ho được 9 năm, cho đến khi Frédéric Malle Cologne Indélébile vượt mặt.

13. Sữa tắm

Hồi trước, Le Labo đã từng có Rose 31 và Bergamote 22 phân phối vào các khách sạn.

Giờ làm lại bộ mùi sữa tắm.

Mùi Hinoki ngon hơn Santal 33 nha.

Cũng được nhưng chưa đủ để tác giả xuống tiền

14. Tubereuse 40 New York

Huệ tây + neroli + nhài + vanilla.

Đoạn huệ tây thì thậm chí còn hay hơn pháp lệnh huệ tây là Frédéric Malle Carnal Flower.

Nhưng đoạn neroli chủ đạo thì lại giống Tom Ford Neroli Portofino.

Nói về neroli thì Frédéric Malle Cologne Indélébile và Castle Forbes Neroli hay hơn.

Le Labo không FAKE thì sao lại nhạt / cồn?

Yếu tố 1: Pháp lý

Trong các thị trường, EU gắt nhất, cấm nhiều nguyên liệu nhất nhân danh “dị ứng”.

Bằng chứng pháp lý

Perfume Allergies, Health and Consumers, Scientific Committees, <https://ec.europa.eu/…/l-3/7-are-regulations-adequate.htm>.

ASEAN nổi hứng lên làm theo EU một số danh sách cấm.

Bằng chứng pháp lý

ASEAN Consumer Information Handbook on Cosmetic Product, <https://www.asean.org/…/Handbook%20web%20publishing.pdf>.

Prance-Miles, 2018, “ASEAN updates cosmetics directive to ban fragrance ingredients”, Global Cosmetics News, <https://www.globalcosmeticsnews.com/asean-updates…/>.

Về pháp lý, Hàn thoải mái nhất á. KFDA cấm ít so với FDA Mỹ, EU.

Anh: Boris Johnson đang đàm phán Brexit. Nên tạm thời, Anh đang thừa hưởng luật của EU. Sau khi Brexit xong tính tiếp về pháp lý.

Yếu tố 2: Rủi ro vận chuyển tính từ nhà máy

Le Labo là hãng Mỹ.

Công ty mẹ Estée Lauder cũng Mỹ.

Nhà máy của Estée Lauder ở New York.

Bằng chứng

Copp, 2018, “Estée Lauder to increase production at New York factory”, Cosmetics Business, <https://www.cosmeticsbusiness.com/…/Estee_Lauder…/143351>.

MacIntosh, 2001, “State Probes”, NYPost.

Estée Lauder có động lực bắt các công ty con làm sản phẩm trong nhà máy Estée Lauder để

* Economy of scale. Giảm chi phí.

* Kiểm soát công thức.

Nhầm lẫn: Có nước ít tinh dầu hơn.

Này nhầm vì: Nếu tinh dầu ít hơn thì phải tăng dung môi để đạt dung tích. Tăng dung môi thì mùi ra khác hẳn chứ không phải nhạt hơn. Không tăng dung môi thì dung tích bị hụt, khách chửi chắc.

Thấy có nhiều bạn tìm mua Le Labo Anh / Pháp.

Nếu Anh hoặc Pháp là kỷ niệm cá nhân đặt biệt thì không có gì bình luận.

NẾU lý do cố tìm là vì sợ bản này nhạt bản kia đậm thì

* Xem xét 2 yếu tố pháp lý và nhà máy ở trên, xét lý thuyết, các chai bán ở MỸ ít rủi ro vận chuyển nhất và ít rủi ro pháp lý nhì.

* Các chai ở Pháp và các nước EU khác chịu rủi ro lớn nhất. Vừa vận chuyển khỏi nhà máy Mỹ, vừa pháp lý bóp chặt nhất.

Vì sao có khác nhau giữa các mẻ (batch variation)

* Bảo quản. Nên xa khỏi Mỹ là rủi ro.

* Nhiệt độ cao thì mau hỏng hơn.

* Thứ quan trọng hơn nhiệt độ là biến thiên nhiệt độ. Đang 10°C ra 37°C thì nhanh hỏng hơn để luôn ở 37°C. Nên để trong tủ mát rơi vào vụ này.

Vì sao giá khác nhau

* Vì hệ thống phân phối của Estée Lauder.

* Vì chính sách chiết khấu của Estée Lauder.

* Vì dự phóng của Estée Lauder.

* Trước khi bán cho Estée Lauder, Le Labo làm cá nhân hoá và kiểm soát đầu ra. Sau khi bán, theo quy trình của Estée Lauder.

* Trung bình, chi phí cho đơn vị bán lẻ chiếm đến phân nửa giá bán thành phẩm. NẾU đơn vị bán lẻ cho chiết khấu / khuyến mãi / giảm giá thành viên thì là của đơn vị bán lẻ. Này tuỳ chính sách của hãng có đặt giá sàn lên đơn vị bán lẻ không.

Đọc thêm:

Thau, 2020, “Behind the Spritz: What Really Goes Into a Bottle of $100 Perfume”, AOL, <https://www.aol.com/…/22/celebrity-perfume-cost-breakdown/>.

Calistro, 1988, “$150 for $1.50 Worth of Perfume”, LATimes, <https://www.latimes.com/…/la-xpm-1988-11-13-tm-10-story…>.

* NẾU business development manager của Estée Lauder dự phóng cao quá dẫn đến bán không hết thì có động lực khuyến mãi.

* Estée Lauder đặt áp lực doanh số, gây thêm áp lực. Nguồn: báo cáo tài chính trình Uỷ ban chứng khoán và cổ đông 2017-2019.

* Chiết khấu nhân viên.

* Nhiều thứ mình chưa biết.

Tóm lại vẫn là mua bằng niềm tin. Còn kiên quyết tìm bản ít rủi ro thì Mỹ đỡ rủi ro vận chuyển nhất đó.

Ở trên chỉ nói hàng authentic. Còn hốt mớ hàng FAKE thì thua 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *