NHẬT KÝ NỮ PHÁP Y – VỤ ÁN GIẾT NGƯỜI LIÊN HOÀN ĐÊM MƯA (PHẦN 3/6)

10.

Ngày 21 tháng 8 năm 2001. Mưa nhỏ.

Tòa soạn báo chiều Sở Nguyên.

Dưới sự nỗ lực không ngừng của đội trọng án, màn đêm đen kịt cuối cùng cũng bị rách một khe hở nhỏ, để lọt một vài tia sáng rọi xuyên qua. Tuy những tia sáng ấy còn xa xăm, lơ lửng, không thể chạm đến, nhưng dù sao cũng đem tới cho người ta một tia hy vọng.

Tổng biên tập Tần Thư Kỳ của báo chiều Sở Nguyên gọi điện đến, báo cáo một tình hình quan trọng: Phóng viên trưởng Đào Anh của báo chiều dạo gần đây có những biểu hiện bất thường, đến sớm về muộn một cách rõ rệt, không để tâm vào công việc, logic những bài viết thì loạn xạ, tiền hậu bất nhất, rất nhiều lỗ hổng. Dĩ liên là trình độ nghiệp vụ trước đây của ông ta cũng chẳng ra gì, nhưng gần đây lại càng xuống cấp, các biên kịch khác không khỏi phàn nàn, đã có vài người phản ánh lại với Tần Thư Kỳ. Mới đầu Tần Thư Kỳ cũng không quá để bụng, bởi Đào Anh là một lão nguyên của tòa soạn báo, tự do tản mạn quen rồi, người khác cũng không dám động vào, nếu tránh được thì tránh. Nhưng Đào Anh lại chủ động tìm đến Tần Thư Kỳ, cứ đòi nghe ngóng về tình tiết và tiến triển của vụ án giế.t người liên hoàn. Tần Thư Kỳ tuy quan liêu, nhưng về điểm này thì vẫn còn cảnh giác, phát hiện ra điểm bất thường của Đào Anh liền báo ngay cho đội trọng án.

Quản Nguy ghi chép lại phản hồi của Tần Thư Kỳ rồi báo cho Thẩm Thư. Thẩm Thư nói ngay: “Thái độ và biểu hiện của cái ông Đào Anh này đều rất khả nghi, ông ta đang trong thời kỳ cảm xúc bất ổn, tranh thủ thêm một bước, có thể kéo ông ấy về phía chúng ta. Chúng ta sẽ đến báo chiều Sở Nguyên một chuyến, nói chuyện trực tiếp với ông ta. Lão Quản, chú giúp tôi điều tra về lý lịch của Đào Anh, càng chi tiết càng tốt. Chỗ báo chiều Sở Nguyên, tôi dẫn Vu Ngân Bảo đi là được.”

Đào Anh khoảng 50 tuổi, thấp béo, da trắng nõn, không tương đồng với tính cách và độ tuổi của ông ta. Ông ta không chú trọng đến cách ăn mặc, bộ âu phục đen rộng thùng thình phối với đôi giày thể thao trắng ố vàng, tóc tai bù xù, nhìn là biết tuýp người không câu nệ tiểu tiết, sinh hoạt không có quy tắc. Thẩm Thư và Vu Ngân Bảo đã thông qua tổng biên tập báo chiều Sở Nguyên để hẹn gặp ông ta, hai người họ ngồi trên một chiếc ghế so-fa trong căn phòng hội nghị nhỏ để chờ đợi.

Đào Anh bước đến trước hai khuôn mặt lạ lẫm, lập tức trở nên cảnh giác: “Các anh là ai? Tìm tôi có chuyện gì?”

Thẩm Thư giới thiệu thân phận cho ông ta, Đào Anh lập tức cúi gằm mặt xuống rồi nói: “Các anh cứ bám theo tôi như cô hồn ấy nhỉ, tôi nhắc lại lần nữa, tôi không có hứng thú với chuyện của các anh, cũng chả biết gì cả, các anh đang làm đảo lộn cuộc sống và công việc của tôi, mời các anh đừng đến làm phiền tôi nữa.” Đào Anh bỏ lại mấy lời cay nghiệt rồi quay người rời đi.

Thẩm Thư gọi với ông ta lại: “Mùa mưa sắp qua rồi, dựa vào thói quen gây án của hung thủ, rất có thể tới đây hắn sẽ ra tay sát hại thêm người nữa, và người này rất có thể là một nhân viên trong báo chiều Sở Nguyên, bất luận kẻ đó có quan hệ với ông hay không, tôi đều hy vọng ông có thể tích cực phối hợp với cảnh sát để tránh sự giế.t chóc tàn bạo của hắn ta.”

Đào Anh đã xông ra đến cửa phòng hội nghị bỗng dừng lại, xem ra ông ta rất quan tâm đến việc hung thủ sẽ tiếp tục gây án, nhưng ngữ điệu vẫn rất cứng rắn: “Tôi không biết gì về cái người mà các anh đang nói, làm sao mà giúp được?”

Thẩm Thư nói một cách thành khẩn: “Phối hợp điều tra, chính là đang giúp chúng tôi, cũng là đang giúp nạn nhân tiếp theo. Xin hãy tin tưởng vào năng lực phá án của cảnh sát.” Rồi nói thêm một câu như một vị triết gia: “Cái gì cần đến cuối cùng cũng phải đối mặt, không thể trốn tránh được.”

Đào Anh đứng do dự ở cửa độ một phút, quay trở lại ngồi trước mặt hai cậu cảnh sát: “Nói đi, các cậu muốn hỏi gì?”

Thẩm Thư nói thẳng: “Theo tôi biết, anh đã có thời kỳ làm phóng viên giải trí cho nhật báo Sở Nguyên, nhất định biết đến cái tên của đạo diễn kịch nói Tô Nam.”

Đào Anh cau mày đáp: “Xin lỗi, tôi chưa từng nghe đến cái tên Tô Nam hay Tô Bắc gì đấy. Để lên được trang nhất chuyên mục giải trí của nhật báo Sở Nguyên, không phải có quan hệ, thì cũng là đại minh tinh, chứ cái vai quèn như Tô Nam chúng tôi chưa bao giờ quan tâm đến.”

Thẩm Thư nhận thấy ông ta có chút phản ứng tâm lý, vừa nghe đến cái tên Tô Nam là lập tức phủi bỏ quan hệ, chứng tỏ bí mật ẩn chứa sau họ hẳn không hề nhỏ. Nhưng họ cũng hiểu, không được sốt sắng khi giao tiếp với Đào Anh. Một là, Đào Anh không phải nghi phạm, không thể áp dụng những biện pháp nghiêm khắc như tra hỏi, thẩm vấn với ông ta; Hai là, Đào Anh không giống với những đối thủ mà cảnh sát đối phó hàng ngày, ông ta có văn hóa và địa vị xã hội nhất định, tính cách có phần tự cao tự đại, người như vậy rất khó để gõ cửa trái tim.

Nhưng bất luận là loại người nào cũng không thể thờ ơ với mạng sống của mình, Thẩm Thư chỉ có thể nắm lấy chỗ hiểm này để tiến công, cậu ta tát nước theo mưa: “Không quen thì tốt, nếu không sẽ có một số thứ không thể đưa cho ông xem, họ chế.t rất thảm, rất đáng thương.” Nói đoạn cậu ta đem ảnh chụp thi thể Tô Nam ra, cố tình tỏ vẻ do dự, sau đó đưa cho Đào Anh xem.

Đào Anh như bị ong chích, lùi lại lẩn tránh theo bản năng: “Đây là gì?” Thẩm Thư đáp: “Là ảnh chụp di thể của Tô Nam, muốn nhờ ông giúp xác minh, liệu có ấn tượng với cái người này không?” Đào Anh ngẩng mặt, nhìn lên trần nhà rồi đáp: “Không xem, tôi không quen ông ta.” Thẩm Thư biết ông ta đang diễn, đập mạnh tấm ảnh trong tay xuống bàn, nghiêm nghị nói: “Đào Anh, chúng tôi đã tìm đến ông, nhất định là có đủ lý do. Cơ quan cảnh sát đang tiến hành hỏi ông, nếu ông từ chối hợp tác, chúng tôi có thể xin giấy triệu tập để mời ông đến đội trọng án. Đi hay ở, tự ông quyết định đi.”

Đào Anh tuy khó nhằn, song trước mặt cảnh sát vẫn có chút sợ hãi, nhìn sắc mặt lạnh tanh của Thẩm Thư, có vẻ cậu ta đang nổi giận, nên cũng đành ngoan ngoãn, định nói bừa mấy câu để đối phó cho họ đi. Thế là ông ta cầm lấy xấp ảnh trên bàn, làm ra vẻ nghiêm túc nhận dạng. Mắt ông ta bị cận, nhưng lại không chịu đeo kính, đành dí sát tấm ảnh vào mắt để nhìn cho kĩ, khi nhìn thấy những vết thủng lỗ chỗ trên thi thể, ông ta bị dọa cho dựng ngược lông tơ, thét lên kinh hãi, ném bức ảnh xuống bàn, lùi ra sau hai bước, hung hãn hỏi: “Này anh họ Thẩm, anh có ý gì?”

Thứ Thẩm Thư cần chính là hiệu quả ấy, nhưng lại làm ra vẻ vô tội, xòe tay đáp: “Không có ý nào khác, ông xem lại xem, có nhận ra người đó không?”

Đào Anh vẫn chưa khỏi hoàn hồn, nghiến răng nghiến lợi: “Này anh họ Thẩm, lão đây nhắc lại lần nữa, không quen cái tên Tô Nam Tô Bắc khỉ gió gì đây, đừng đến làm phiền tôi nữa.” Vừa dứt lời, ông ta liền quay đầu bỏ đi. Thẩm Thư vẫn đứng đằng sau nói: “Ơ, phóng viên Đào, vẫn chưa nói xong mà, sao đã bỏ đi thế? Tên hung thủ này lần ra tay sau sẽ tàn nhẫn hơn lần ra tay trước, chúng tôi cần sự giúp đỡ của ông.” Lần này Đào Anh không dừng lại, mở tung cửa, đi thẳng ra ngoài.

Vu Ngân Bảo thấy Đào Anh chẳng chịu quay đầu, “Ơ” một tiếng, định đuổi theo. Thẩm Thư ngăn cậu ta lại rồi bảo: “Không cần, để ông ta đi, đợi ông ấy chủ động đến tìm chúng ta.” Vu Ngân Bảo bán tín bán nghi hỏi: “Ông ta ngoan cố như vậy, sao có thể đổi ý được?” Thẩm Thư đáp: “Nếu như vậy rồi mà vẫn không khiến ông ta mở miệng, chứng tỏ ông ta đã quyết tâm đến không, không ai có thể xoay chuyển được.”

Trở về đội, Quản Nguy đã sắp xếp xong tài liệu về lý lịch của Đào Anh, đặt chúng lên bàn làm việc của Thẩm Thư. Hiệu quả công việc và tính chuyên nghiệp của Quản Nguy cũng đứng nhất nhì trong đội trọng án có tác phong làm việc nghiêm khắc. Tài liệu chỉ ra, Đào Anh, năm nay 52 tuổi, quê ở An Huy, sinh ra ở Sở Nguyên, sinh viên Đại học Công Nông Binh, sau khi tốt nghiệp thì vào làm ở nhật báo Sở Nguyên cho đến nay. Đã kết hôn, bà vợ Tổ Gia của ông ta làm ở Ban cán sự tỉnh, sinh một cô con gái, đặt tên là Đào Thuận Tử, hiện đang là sinh viên năm 2 trường Đại học Giang Hoa. Đào Anh làm phóng viên lâu năm, quan hệ xã hội sâu rộng, nhưng chưa thể khẳng định ông ta có quan hệ với hai nạn nhân. Bản lý lịch này có vẻ bao hàm rất nhiều thông tin, nhưng lại không có nội dung nào hỗ trợ được cho việc điều tra, giống với những manh mối nắm được trước mắt, lúc gần lúc xa, khiến người khác không biết bắt đầu từ đâu.

11.

Ngày 21 tháng 8 năm 2001. Mưa nhỏ.

Tiểu khu Liên Hoa đường Hạ Hưng thành phố Sở Nguyên.

Chuyện sắp nói dưới đây, là những gì tôi được nghe Thẩm Thư kể lại sau 5 năm kể từ khi vụ án này được phá. Vào thời điểm đó, cùng với sự thay đổi về mặt nhân sự, sự chuyển biến của xã hội, tình tiết bảo mật năm xưa đã quá hạn, độ nhạy cảm của xã hội cũng giảm xuống. Chỉ có điều Thẩm Thư vẫn cứ giấu một người đã tham dự vào vụ án đó như tôi trong suốt khoảng thời gian dài, nhưng khi nhìn lúc cậu ta xử lý các vấn đề mang tính nguyên tắc, bảo cậu ta mất hết tình người cũng không ngoa.

Vụ việc này đã kéo theo cả phó phòng khoa học kỹ thuật, tượng đài quyền uy của giới pháp y thành phố Sở Nguyên – Trần Quảng vào trong. Sau khi Thẩm Thư nghe xong báo cáo giám định của tôi về vết thương trên người Từ Kiếm Minh, cậu ta không hề cả tin, mà phái Quản Nguy lập tức đến trung tâm giám định vật chứng của Phòng Cảnh sát tỉnh, đem ảnh chụp vết thương của Từ Kiếm Minh và ghi chép của bác sĩ điều trị chính cho anh ta ra để nhờ giám định, nhằm nghe ý kiến từ bên thứ ba. Phòng Cảnh sát nhanh chóng đưa ra kết luận, hoàn toàn trùng khớp với báo cáo giám định của tôi.

Thẩm Thư nhận thấy cần phải hành động ngay. Do chức vụ hành chính của Trần Quảng cao hơn, nên cậu ta phải báo lên cấp trên trước. Đây là một chuyện rất khó xử, vì Trần Quảng là ái tướng của Giám đốc Sở điều tra Cao Đại Hùng, cũng là do một tay ông ấy đề bạt, mà Cao Đại Hùng lại là lãnh đạo trực tiếp của Thẩm Thư. Phải báo cáo thế nào đây? Nói Trần Quảng làm việc bất cẩn, nghiệp vụ không chính xác, nhận định nhầm vết thương do súng Mauser thành súng săn? Nhưng kỹ năng nghiệp vụ của Trần Quảng đã được công nhận, được tôi luyện qua trăm ngàn trận chiến, sao có thể chỉ vì một lần sai sót — thậm chí chưa thể khẳng định là sai sót, liền phủ nhận hoàn toàn một con người? Làm cảnh sát hình sự, ai mà chưa từng mắc sai lầm? Nếu chỉ vì phạm sai lầm trong quá trình làm án mà xử lý người ta, thì trong Sở liệu còn mấy ai là trong sạch đây?

Thẩm Thư suy nghĩ hồi lâu, quyết định làm suy yếu mâu thuẫn, trong khi báo cáo với Cao Đại Hùng, sẽ nói giảm nói tránh rằng Phòng Cảnh sát tỉnh có ý kiến trái chiều với vết thương do súng trên người Từ Kiếm Minh, kiến nghị trong quá trình làm án, triển khai điều tra đồng thời cả súng dân dụng và súng quân dụng. Thời gian gần đây thường xuyên xảy ra trọng án, Cao Đại Hùng có chút rối ren, nên không kịp nghĩ nhiều về ẩn ý sâu xa trong báo cáo của Thẩm Thư, liền đồng ý phê duyệt.

Thẩm Thư có dùng thủ đoạn gì với Trần Quảng hay không, đến nay vẫn là một ẩn số, có thể cậu ta sẽ đem theo cái bí mật đấy xuống quan tài. Tóm lại, dưới tình hình lúc bấy giờ, cậu ta có dùng thủ đoạn hay không cũng đều sai. Dùng thủ đoạn, là kiêu ngạo, không tuân theo trình tự làm việc của tổ chức, gây chia rẽ nội bộ; Không dùng thủ đoạn, là cẩu thả, thái độ làm việc không nghiêm túc, thiếu tinh thần trách nhiệm. Sự việc là như thế, lật tới lật lui cũng là cái lý, chỉ khi nắm được quyền lực, mới nắm được chân tướng.

Hoạt động rà soát súng được triển khai.

Số lượng súng Mauser ở thành phố Sở Nguyên vốn không nhiều, đã bị loại khỏi biên chế từ năm 1978, tập trung thu hồi để tiêu hủy. Hiện tại chỉ có bảo tàng quân sự còn lưu giữ hai khẩu, nhưng đều không có đạn. Khẩu Mauser bị lưu lạc trong dân gian, là vào khoảng năm 1974, sau khi một đội Hồng vệ binh lai lịch không rõ ràng công kích vào một đơn vị đóng quân của quân Giải phóng ở Sở Nguyên, khẩu súng Mauser mang số hiệu 7885 của Đại đội trưởng quân Giải phóng đã bị mất. Có lẽ một Hồng vệ binh đã nhân lúc hỗn loạn để cuỗm khẩu súng đi. Nhưng chuyện đã qua từ rất lâu, giờ mà đi điều tra lại vụ Hồng vệ binh làm loạn thì khác gì mò kim đáy bể.

Khẩu súng đó đã xuất hiện lại sau hơn hai thập kỷ mất tích, liệu kẻ cầm súng có phải là Hồng vệ binh năm xưa? Hay đã được đổi chủ? Từ khi súng Mauser bị loại khỏi biên chế, thành phố Sở Nguyên không ghi nhận một vụ thương tích nào do súng Mauser gây ra. Nói cách khác, trong suốt hai thập kỷ, khẩu súng đó chỉ nằm yên một chỗ, kẻ giữ súng đã cả gan làm loạn lại ngấm ngầm chịu đựng, dù phải đối mặt với nguy hiểm cũng không chịu vứt nó đi. Nhiều năm sau nó lại được đem ra sử dụng, nhằm mục đích tiêu diệt Từ Kiếm Minh. Có một cách giải thích đó là, hành động của Từ Kiếm Minh vào mỗi đêm mưa lại đến hiện trường vụ án để tuần tra đã uy hiếp đến sự an toàn của hung thủ, phá hỏng hành vi giế.t người liên hoàn của hắn, mà hung thủ lại không có cách nào để trừ khử Từ Kiếm Minh, đành phải mạo hiểm, lôi khẩu Mauser đã ngủ yên suốt nhiều năm ra sử dụng.

Đó là chân tướng của sự việc sao?

Đội trọng án đã liên hệ với đơn vị quân Giải phóng, những chiến sĩ năm xưa giờ đa phần đã luân chuyển về địa phương công tác, có người nghỉ hưu, có người đã mất. May mắn thay, vẫn liên hệ được với Cảnh Liên Phú – Đội trưởng bị mất súng năm xưa. Ông ta sống ở tiểu khu Hoa Liên đường Hạ Hưng thành phố Sở Nguyên, ông từng giữ chức Trưởng phòng tổng hợp của Sở nội vụ và mới về hưu năm ngoái. Nhắc lại chuyện mất súng, cái người đàn ông tóc đã bạc màu trong lòng lại thấy ấm ức, giận giữ nói: “Đám Hồng vệ binh năm ấy, vô pháp vô thiên, thấy nhà là phá, thấy đồ là cướp. Các chiến sĩ chúng tôi lại không được động thủ, cấp trên đã có lệnh, không được làm thương bọn họ, nếu không chúng tôi sẽ mắc bẫy, mang tiếng là phản đối cuộc đại Cách mạng Văn hóa của giai cấp vô sản, cố tình công kích chế độ chuyên chế của giai cấp vô sản, nên chúng tôi đành để mặc bọn chúng làm càn. Nguyên cái doanh trại của chúng tôi bị đập phá tan nát. Tôi tức quá, chửi bọn chúng mấy câu, thì bị một đám người có vũ trang, cầm gậy gộc vây lại đánh. Trong lúc hỗn loạn, tôi bị phang một nhát gậy vào đầu rồi lăn ra ngất, sau khi tỉnh lại thì không thấy khẩu súng dắt ở bụng đâu, nhất định là bị một tên khốn nào đó đã cuỗm mất. Vì chuyện ấy mà tôi bị luân chuyển công tác trước thời hạn.”

Thẩm Thư hỏi: “Các Hồng vệ binh tấn công ông đều đeo băng tay đúng không? Vậy vẫn không biết lai lịch của họ sao?”

Cảnh Liên Phú lắc đầu, đáp: “Nhìn vào băng tay không nhận ra đâu. Hồi đó thiếu thốn vật chất, đồ đạc đắt giá, băng tay toàn đeo bừa, có người còn đeo mỗi miếng vải đỏ. Vây đánh tôi có mười mấy người, nam nữ có cả, tuổi ngoài 20, không giống học sinh Trung học mà giống sinh viên Đại học hơn. Chuyện qua rồi có người mới nói, họ nhận ra hai Hồng vệ binh trong số đó là sinh viên Đại học Sở Nguyên. Hồi ấy, phe phái của Hồng vệ binh rất đông, cũng chả ai rảnh để mà nhớ tên mấy cái phe phái hỗn tạp ấy.”

Nhắc đến khẩu Mauser bị mất, trong lòng Cảnh Liên Phúc đau đớn khôn nguôi: “Khẩu súng đó là vật kỉ niệm mà thủ trưởng quân khu tặng cho tôi khi tôi làm cảnh vệ cho ông ấy, tôi coi nó như báu vật vậy, thế mà lại bị người khác trộm mất một cách không rõ nguyên nhân, giờ lại đem nó ra để giế.t người, thật là nhục nhã.”

Mặc dù tìm được Cảnh Liên Phúc, xác minh được lai lịch của khẩu súng, nhưng vụ án vẫn là một mớ bòng bong, không vì thế mà được thúc tiến. Hồng vệ binh trộm súng năm xưa, tính đến nay cũng đã ngoài 50 rồi, biển người mênh mông, lại không có manh mối nào để lần theo, biết tìm người đó ở đâu đây?

12.

Ngày 25 tháng 8 năm 2001. Trời nhiều mây chuyển quang.

Sau khi đẩy củ khoai nóng bỏng tay cho Thẩm Thư, những ngày tháng của tôi vẫn không trở nên khá khẩm hơn.

Trần Quảng vẫn với vẻ ngoài điềm tĩnh, đi làm như mọi ngày, làm việc tỉ mỉ, xem ra chưa hay biết về những nghi ngờ của tôi với bản báo cáo giám định vết thương của Từ Kiếm Minh, cũng chưa chịu bất cứ ảnh hưởng nào. Có thể ông ấy thực sự vô tội? Án súng vốn đã ít gặp, Trần Quảng tuy đã làm pháp ý được hơn hai mươi năm, nhưng tin chắc số lượng các vụ án súng mà ông ấy làm chỉ đếm trên đầu ngón tay. Huống gì, ông ấy vốn là một bác sĩ ngoại khoa nhảy sang làm pháp y, không sánh được với một người xuất thân từ học viện chính thống như tôi, ông ấy có một vài chỗ yếu kém thì cũng là điều dễ hiểu.

Còn bản thân tôi thì như người mắc lỗi, ngày nào đi làm cũng tỏ ra lo lắng bất an, sợ phải đối mặt với Trần Quảng, càng sợ phải nói chuyện với ông ấy. Nhưng ông ấy là thầy của tôi, lại là lãnh đạo trực tiếp, không thể nào tránh mặt được. Cũng may là ông ấy không có khúc mắc gì, thái độ với tôi vẫn như trước, không quá nhiệt tình, cũng không quá lạnh nhạt. Mỗi lần đi làm án đều gọi tôi đi theo, khi chỉ đạo tôi thì có gì nói nấy. Sự bình tĩnh của ông ấy khiến tôi cảm thấy hoang mang, thậm chí còn thấy ăn năn, bắt đầu nảy sinh nghi ngờ với cách làm của mình. Có lẽ khi ấy tôi nên tiết chế hơn, không nên nghi ngờ ông ấy dễ dàng như thế, tôi còn quá trẻ, thiếu kinh nghiệm, chưa đủ trưởng thành để làm việc một cách bình tĩnh……

Thẩm Thư vẫn án binh bất động, tôi không thể trông cậy vào anh ta được nữa, phải tự mình đối mặt thôi. Đây là khó khăn đầu tiên kể từ khi tôi bước chân vào nghề, cũng là vấn đề khó khăn nhất mà tôi gặp phải trong suốt hơn hai mươi năm cuộc đời. Tôi đoán Trần Quảng không thể không biết việc tôi nghi ngờ ông ta, ông ta đã có nhiều năm làm việc ở cái thành phố Sở Nguyên này, quan hệ sâu rộng, từ Phòng Cảnh sát tỉnh đến Sở Cảnh sát địa phương, đều có anh em cốt cán, chỉ cần có chút động tĩnh là ông ấy sẽ biết ngay, huống chi một việc lớn như này, hơn nữa ông ấy lại là nhân vật trung tâm của toàn bộ câu chuyện. Ông ta vẫn tỏ ra bình thản, có hai khả năng, một là ông ta thực sự công tâm, làm sai thì dám dũng cảm chịu trách nhiệm, nên không cảm thấy hổ thẹn; Hai là ông ta quả thực đúng với những gì tôi nghi ngờ, cố ý làm sai kết quả giám định vết súng, làm chệch hướng điều tra của đội trọng án nhằm che dấu sự thật, nếu là như vậy thì tính chất sẽ cực kỳ nghiêm trọng, ông ta có thể là đồng phạm của hung thủ, cũng có thể chính ông ta là hung thủ, mọi khả năng xấu nhất đều phải được lường trước, sự bình tĩnh của ông ta có thể là màn dạo đầu cho một cơn cuồng nộ.

Vận mệnh đã trêu đùa tôi một cách khó hiểu, vị lãnh đạo, người thầy đầu tiên của tôi từ khi bước chân vào ngành lại trở thành đối tượng bị tôi hoài nghi. Tôi đang rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, không biết nên làm sao cho phải.

Một chuyện nhỏ đã buộc tôi từ thế phòng thủ bị động sang thế tấn công chủ động. Sáng ngày hôm ấy, tôi đem tài liệu đến phòng làm việc của Trần Quảng, từ đầu đến cuối luôn vác theo bộ mặt tươi cười, không dám nói thừa một câu, chậm chễ một nhịp. Sau khi đặt tài liệu xuống, tôi liền vội vã bước ra ngoài cửa. Trần Quảng từ sau lưng đột nhiên hỏi: “Thục Tâm, trước khi em đến Sở làm việc, đã từng tham gia vào công tác giám định án súng chưa?” Giọng điệu rất bình tĩnh, lại như sấm rền giữa không trung, làm rúng động trái tim tôi. Tôi ngơ ngác quay người lại thật chậm, thấy ông ấy vẫn đang cắm đầu vào đống tài liệu, không hề để ý đến phản ứng của tôi, dường như đó chỉ là một câu nói đại không mang nhiều hàm ý.

Tôi cố tỏ ra bình tĩnh, cảm giác cổ họng như bỏng rát, nuốt một ngụm nước miếng rồi mới đáp: “Không…… không có ạ, sao thầy lại hỏi thế?” Giọng tôi khàn đặc, vừa nghe là biết trong lòng đang chột dạ.

Nhưng Trần Quảng lại không phát hiện ra điều bất thường, vẫn không ngẩng đầu mà nói: “Không có gì, hỏi bừa thôi, em ra ngoài đi.”

Tôi trở về bàn trong phòng làm việc của mình, tim vẫn đang đập loạn xạ. Trần Quảng hỏi vậy là có ý gì? Ông ta hỏi một câu không đầu không đuôi ấy trong giai đoạn nhạy cảm như này, nhất định không phải hỏi bừa. Ông ta đang tỏ ra bất mãn? Nhắc nhở? Cảnh cáo? Khiêu khích? Gây áp lực?

Sao thế này? Rõ ràng người có vấn đề là ông ta, cứ cho ông ta trong sạch, thì việc ông ta lẫn lộn vết thương gây ra do súng quân dụng và súng dân dụng, đã khiến ông ta không xứng đáng để ngồi ở vị trí đó rồi, xử phạt ông ta là còn nhẹ. Mình sao phải chột dạ chứ?

Tôi không thể khoanh tay đứng nhìn mọi việc cứ thế tiếp diễn, nó chỉ càng khiến tôi rơi vào thế bất lợi mà thôi. Tôi buộc phải phản kích. Cảnh Liên Phú, Đại đội trưởng quân Giải phóng bị mất súng năm xưa không phải đã khẳng định nghi phạm là một Hồng vệ binh hay sao? Hồng vệ binh đó đến nay cũng tầm 50 tuổi, trùng khớp với độ tuổi của Trần Quảng. Hơn nữa, theo chân dung hung thủ của vụ án giế.t người liên hoàn được đội trọng án phác họa, hắn từng tham gia vào quân đội hoặc cảnh sát, được huấn luyện chịu đòn, địa vị kinh tế tốt, có ít nhất một phương tiện giao thông đáng tin cậy, những điểm này đều rất tương đồng với Trần Quảng. Trần Quảng tuy là một cảnh sát dân sự nhưng lại rất thích khua côn múa súng, thi thoảng lại đến căn cứ huấn luyện cảnh sát để tập bắn, hoặc đi vài đường quyền, tố chất cơ thể tốt. Chỉ có điều tuổi tác có sự chênh lệch với chân dung phác họa hung thủ, nhưng không vì thế mà loại ông ta ra khỏi diện tình nghi, chân dung phác họa của đội trọng án có sai lệch là điều khó tránh.

Nói không chừng hai nạn nhân kia chính là những người biết chuyện Trần Quảng trộm súng, nên mới bị giế.t thê thảm vậy. Nghĩ đến đây, toàn thân tôi lạnh toát. Mặc kệ tay Thẩm Thư, tự tôi sẽ đi xác minh chân tướng.

Tôi bí mật truy xuất lý lịch của Trần Quảng từ máy tính. Hiện tại, chính phủ các cấp triển khai công tác chính quyền mở, mọi lý lịch của cán bộ cấp trung trở lên đều được đăng tải lên trang mạng nội bộ để các nhân viên có thể đọc. Trần Quảng là sinh viên Đại học Công Nông Binh, tốt nghiệp khoa Bệnh lý của Viện y học Sở Nguyên, là một Đảng viên sinh viên. Ngày mà Cảnh Liên Phú mất súng là ngày 30 tháng 4 năm 1975, lúc đó Trần Quảng vẫn đang là sinh viên Đại học, chỉ cần tìm ra được thầy giáo hoặc bạn học hiểu rõ ông ta, tôi tin nhất định sẽ tìm ra manh mối.

May là tôi được sinh ra và lớn lên ở vùng đất Sở Nguyên, nên cũng có một vài mối quan hệ. Hai ngày sau khi nhờ cậy hết người này người kia, tôi đã liên hệ được với một Giáo sư đã nghỉ hưu của Viện y học Sở Nguyên, nghe nói năm xưa đã từng giảng dạy cho Trần Quảng, cũng đồng ý kể cho tôi nghe về chuyện của Trần Quảng khi còn là sinh viên. Tôi không tiết lộ cho người đó về thân phận của mình, nói dối ông ta mình là thành viên tổ Đảng của Sở Cảnh sát thành phố Sở Nguyên, do có người bày tỏ kiến nghị với việc đề bạt Trần Quảng, nên cần điều tra sâu về biểu hiện của ông ấy thời đầu vào Đảng. Cái cớ này thật vụng về, nhưng đối với một vị Giáo sư đã trải qua thời buổi loạn lạc mà cái gì cũng phải bàn tới chính trị và xuất thân, thì như thế là đủ.

Giáo sư họ Tiền, tên là Học Lễ, người gầy, đầu bạc trắng, ăn mặc tươm tất gọn gàng, chỉ có điều bị thọt một chân nên đi lại không được thuận tiện. Nhắc đến Trần Quảng, Tiền Học Lễ lắc đầu lia lịa, nét mặt tỏ vẻ thương tiếc, nói: “Cậu sinh đó rất thông minh, lại không ngại khổ để mày mò nghiên cứu, một nhân tài hiếm có.” Tôi hùa theo câu nói của ông ta: “Đúng vậy, bây giờ thầy ấy là một biểu tượng của giới pháp y thành phố Sở Nguyên, đạt nhiều thành tích trong lĩnh vực chuyên môn.” Tiền Học Lễ lắc đầu bảo: “Cô nghe tôi nói hết đã. Con người sống trên đời, đạo đức đặt lên hàng đầu, sự nghiệp vinh hoa chỉ đứng thứ hai, nếu đạo đức bị vấy bẩn thì người đó không những không có ích, mà còn gây hại cho xã hội. Cuộc đời của Trần Quảng, đã bị tính khôn lỏi của cậu ta hãm hại, đầu cơ trục lợi, mưu mô thủ đoạn. Địa vị xã hội của cậu ta hiện giờ trông thì có vẻ cao, nhưng về lâu dài, thì cậu ta mất nhiều hơn được.”

Tôi cố ý dẫn dắt câu chuyện: “Tại sao ấn tượng của người trong Sở lại đối ngược lại nhỉ? Kết quả trưng cầu dân ý mà chúng tôi thu thập được, đa số cho rằng Trần Quảng là người có tác phong giản dị, sống chân thành, làm việc nghiêm túc trách nhiệm.” Tiền Học Lễ đáp: “Đó chính là sự cao tay của cậu ta, các cô các cậu đều bị che mắt rồi. Trần Quảng là một người giỏi cải trang, chưa đến thời khắc quan trọng thì sẽ không nhìn ra nhân phẩm tốt xấu của cậu ta. Năm xưa khi cậu ta đang học, chẳng phải là một sinh viên văn đức song toàn hay sao? Nhưng khi nổ ra cuộc vận động, cậu ta lập tức trở thành một con người khác, mất hết nhân tính, đánh người như ngóe, cái chân này của tôi là bị cậu ta đánh què đây.” Tiền Học Lễ duỗi cái chân phải ngắn hơn một chút của mình ra, nói: “Năm xưa, Trần Quảng là môn sinh đắc ý của tôi, ai ngờ chính tay cậu ta đã hất tôi xuống đất, dùng gậy gỗ để đánh liên tục vào cẳng chân tôi, khiến xương ống chân bị dập nát.” Tiền Học Lễ hồi tưởng lại cảnh tượng vô nhân đạo năm ấy, các cơ trên khuôn mặt không ngừng co giật.

Tôi rùng mình, tưởng tượng ra bộ dạng hung hãn đánh người của Trần Quảng, càng củng cố thêm nghi ngờ của mình về việc ông ta chính là hung thủ của vụ án giế.t người liên hoàn. Tôi hỏi: “Trần Quảng đánh người hẳn phải có nguyên do gì chứ?” Tiền Học Lễ cười gượng đáp: “Ở cái thời buổi loạn lạc ấy thì cần gì phải có lý do, tôi là một trong 9 thứ cũ kĩ thối nát (Trong suốt Cách mạng Văn hóa, Mao Trạch Đông chỉ ra 9 loại kẻ thù mà ông ta muốn nhắm đến: thứ nhất là địa chủ, thứ hai là nông dân giàu có, thứ ba là chống đối cách mạng, thứ tư là phần tử xấu, thứ năm là cánh hữu khuynh, thứ sáu là kẻ phản bội, thứ bảy là cựu đặc vụ, thứ tám là kẻ ủng hộ tư bản, thứ chín là giới tri thức), cậu ta ở phe tạo phản, cậu ta đánh tôi là lẽ hiển nhiên, chỉ đơn giản vậy thôi. Hồi đó phe phái Hồng vệ binh ở trong trường rất đông, cái gì mà Thiên phái, Địa phái, đội chiến đấu Hồng kỳ, đội chiến đấu Tỉnh Cương Sơn, Trần Quảng hình như là đội phó đội chiến đấu Hồng Kỳ, tôi chỉ biết có vậy thôi. Hồi đó chúng tôi rất phản cảm với hành vi nổi loạn của bọn họ, nên chẳng thèm quan tâm đến mấy cái danh xưng lố bịch ấy.”

Tôi tiếp tục hỏi: “Bác Tiền, bác nhớ lại xem, tháng 4 năm 1975, có một nhóm Hồng vệ binh đã tấn công vào một đơn vị quân Giải phóng ở Sở Nguyên, Trần Quảng có tham gia vào nhóm người đó không?” Tiền Học Lễ cau mày, suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Lúc đó tôi bị nhốt trong chuồng bò, chân thì bị đánh gãy, gần như bị cô lập với thế giới, nên không rõ động tĩnh ở bên ngoài.” Tôi không can tâm, hỏi tiếp: “Thế thì, bác có quen ai mà thân thiết với Trần Quảng hồi đó không, để tôi đi tìm gặp.” Tiền Học Lễ lắc đầu: “Không quen, con người như Trần Quảng không có bạn bè, trông bề ngoài thì có vẻ với ai cậu ta cũng chơi thân, nhưng nếu truy đến cùng thì đến một người bạn tốt cũng chẳng có, không ai có thể nhìn thấu con người cậu ta.”

Tôi có chút thất vọng, ông ấy chỉ cung cấp được những thông tin sơ sài, không giúp ích cho việc điều tra sâu. Nếu nói tiếp e là cũng không thu hoạch thêm được gì, tôi bèn nói mấy lời cảm ơn rồi cáo từ. Ông ấy đi lại bất tiện nên không ra tiễn, khi tôi gần ra đến cửa thì ông ấy đột nhiên hỏi: “Cô không phải người của tổ Đảng Sở Cảnh sát hay sao, cô đi điều tra vụ án, nhẽ nào Trần Quảng có chuyện rồi?”

Tôi ngớ người, quay lại một cách khó xử: “Bác, bác…… Nói thế nào nhỉ?” Tiền Học Lễ nhếch miệng, lộ ra một nét cười: “Tiểu cô nương, cô coi tôi già rồi vô dụng, nên mới nói bừa để dỗ ngon dỗ ngọt tôi. Cô nói thật đi, rốt cuộc Trần Quảng đã xảy ra chuyện gì?”

Trong đầu tôi diễn ra sự đấu tranh giữa việc nói giối và khai thật trong suốt mấy giây, sau đó bước tới, ngồi xuống đối diện Tiền Học Lễ, kể lại toàn bộ cho ông ấy nghe về vụ án giế.t người liên hoàn, việc Từ Kiếm Minh bị bắn, và việc Trần Quảng đã làm sai báo cáo giám định. Nghe xong vụ án chấn động lòng người ấy, cặp mắt nhìn thấu thế sự của ông ta liền lấp lánh giọt lệ, thở dài một cái: “Không ngờ lại nhiều người chế.t đến thế, hầy, việc trên thế gian, đúng là nhân quả tuần hoàn, báo ứng bất sảng.”

Tôi thành khẩn nói: “Chuyện qua đã lâu, người biết chuyện năm xưa giờ rất khó tìm, với tình hình chưa xác thực được chứng cứ như hiện giờ, đội trọng án không thể triển khai điều tra đối với Trần Quảng, cho nên tôi khẩn cầu bác, nếu bác còn biết thêm chuyện gì, nhất định phải nói cho tôi, không thể để hung thủ tiếp tục nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.”

Thật là trùng hợp, đúng lúc ông ta định mở miệng thì điện thoại của tôi rung chuông, là Trần Quảng gọi đến. Tim tôi chợt thắt lại, dạo gần đây rõ ràng số lần Trần Quảng gọi cho tôi nhiều hơn hẳn đợt trước, rốt cuộc ông ta định làm gì? Theo dõi tôi chăng? Tôi đánh mắt về phía Tiền Học Lễ, ra hiệu cho thầy ấy im lặng rồi mới bắt máy. Giọng nói của ông ta vẫn không mặn không nhạt: “Em đang ở đâu? Thôn Tiểu Vương có một vụ án gây thương tích, em mau về Sở rồi cùng thầy đến hiện trường.” Cúp máy xong, tôi đành nhún vai, ra hiệu phải đi. Tay phải của Tiền Học Lễ giơ lên, lộ ra một chiếc chìa khóa màu đồng vừa dài vừa rộng, nói: “Cầm lấy đi, có thể ở đó sẽ có đáp án mà cô cần.”

Tôi nhận lấy chiếc chìa khóa một cách khó hiểu, hỏi: “Đây là cái gì?” Ánh mắt của Tiền Học Lễ trở nên ảm đạm, trên mặt lộ ra vẻ mệt mỏi và chán chường mà chỉ những người già thất thập lai hy mới có, chậm rãi kể lại một câu chuyện trong quá khứ khiến người nghe thổn thức: “Tôi từng có một cậu sinh viên tên là Cổ Nhược Thành, học trên Trần Quảng một khóa, là đội trưởng đội chiến đấu Hồng kỳ thời “Văn Cách”, có thể coi là chiến hữu thân thiết của Trần Quảng, cũng từng tham gia đánh đập tôi. Sau khi “Văn Cách” kết thúc, cậu ta được phân công tác về Viện khoa học xã hội thành phố, nghiên cứu về lịch sử của tỉnh và thành phố. Sau khi trưởng thành về mặt tư tưởng, cậu ta đã rút ra được bài học xương má.u, tỏ ra sám hối và suy ngẫm sâu sắc về những hành vi của mình trong thời kỳ “Văn Cách”, viết ra kín 4 quyển nhật ký, nhưng do hoàn cảnh bó buộc nên những quyển nhật ký đó chưa từng được công khai. Cậu ta đã mất vì bạo bệnh cách đây 7 năm, trước khi chế.t có gửi gắm những quyển nhật ký ấy cho tôi cất giữ, bảo rằng những ân nghĩa và thù oán giữa hai thầy trò, cùng thăng trầm trong những năm tháng không dám nhớ lại kia đều được ghi chép lại trong đây. Tôi chưa từng động vào chúng, bởi trước nay luôn cho rằng, bi kịch của một dân tộc không nên để một cá nhân cụ thể phải chịu trách nhiệm, việc Cổ Nhược Thành bị nhấn chìm trong dòng nước lũ của Cách mạng tạo phản không hoàn toàn là lỗi của cậu ấy. Những cuốn nhật ký kia đều được cất giữ trong căn nhà cũ bỏ hoang của tôi, nếu không phải cô tìm đến, có lẽ tôi đã quên rồi.”

Thứ mà Tiền Học Lễ giao cho tôi, là chìa khóa của căn nhà cũ. Nhật ký được cất ở trong nhà kho của căn nhà.

Lúc này, điện thoại của Trần Quảng lại gọi tới, hỏi tôi đi đến đâu rồi. Tôi lia lịa đáp: “Em sắp tới rồi, sắp tới rồi.” Tôi cúi người chào Tiền Học Lễ, đi ra khỏi cửa, gọi một chiếc ta-xi, đi đến Sở Cảnh sát thành phố.

Sau khi giải quyết xong vụ ở thôn Tiểu Vương, lúc này cũng đã gần 6 giờ chiều, Tôi nhớ lại những quyển nhật ký đó, thấy trời vẫn còn sáng, liền bỏ cả cơm, vội lần theo địa chỉ mà Tiền Học Lễ đưa cho để tìm đến căn nhà cũ của ông ấy.

Đó là một căn nhà mái bằng kiểu cũ tọa lạc ở ngoại ô thành phố, trước căn nhà có một cái sân nhỏ hình vuông. Ngói đỏ gạch xanh, cửa sổ được sơn màu xanh nõn chuối. Nếu mà là trước đây thì căn nhà trông cũng khá lịch sự tao nhã, nhưng hiện tại đã bị bỏ hoang lâu ngày, cỏ trong vườn mọc um tùm, tường và cửa sổ loang lổ, đầy những vết ăn mòn của gió mưa. Lúc này đã là hoàng hôn, cỏ cây trong sân rậm rạp, không thấy dấu vết của con người, trong lòng tôi không khỏi nảy sinh một cảm giác cô độc, lạnh lẽo.

Đẩy cánh cửa sân bị che lấp, gạt những bụi cỏ chưa đến bắp chân, một con đường nhỏ lát đá cuội hiện ra trước mắt. Tôi dò dẫm bước về phía cửa phòng, những con chim nhạn rời đàn đang kêu ê a trên đầu, cơn gió se lạnh lướt qua gò má, thổi bay những lọn tóc của tôi. Tôi lấy hết can đảm, bước nhanh về phía cửa, trông thấy một ổ khóa to đùng bị hoen gỉ, hẳn là đã lâu không ai động đến, không biết chiếc chìa này có thể mở được nữa hay không.

Tôi nhét chìa khóa vào ổ, vặn mở hai nhát, chiếc ổ kêu “cạch” một cái rồi mở ra. Trong lòng tôi vui sướng, cầm lấy ổ, khẽ khàng mở cánh cửa ra, bản lề cửa bị rít phát ra tiếng kẽo kẹt đến chói tai, một mùi hôi thối ập vào mũi. Căn nhà đã lâu không có người ở, điện bị cắt, tôi mở chiếc đèn pin đã chuẩn bị từ trước, quan sát xung quanh một lượt. Sau một hồi do dự, cuối cùng quyết tâm vén màn sự thật đã chiến thắng nỗi sợ hãi, tôi không chùn bước mà đi đến vị chí mà Tiền Học Lễ đã chỉ.

Nhà kho nằm ở góc Tây Bắc của căn nhà, chỉ rộng có 5 mét vuông, một cánh cửa hẹp đã bị mục nát, dựng lên một cách xiêu vẹo. Tôi vừa mới chạm tay vào thì cánh cửa đã đổ ập vào người, bụi bay mù mịt. Tôi vội lùi ra sau hai bước, thân cửa vỗ mạnh xuống nền nhà. Ngoại trừ phạm vi phủ sáng của chiếc đèn pin, bốn bề xung quanh đều tối đen như mực, tiếng ồn phát ra làm tim tôi không ngừng đập mạnh. Tôi đặt tay lên ngực để lấy lại bình tĩnh. Lúc này, trong sự tĩnh mịch bỗng vang lên tiếng lách cách, như thể có hai vật gì đó va vào nhau, tuy nhỏ nhưng nghe rất rõ. Sống lưng tôi lạnh toát, vội lấy đèn rọi về phía tiếng động phát ra nhưng không thấy có gì khác lạ. Tôi cố gắng thuyết phục bản thân đừng có thần hồn nát thần tính, hít một hơi thật sâu rồi mượn ánh đèn để quan sát đồ đạc trong kho.

Căn phòng nhỏ hẹp được chất đống những thứ đồ đạc linh tinh, hộp cát-tông, ba-lô, đồ gia dụng cũ lấp kín cả không gian. Cái hộp cát-tông in hoa văn mà Tiền Học Lễ miêu tả bị đè dưới một bao quần áo cũ. Tôi nín thở, không bận tâm đến lớp bụi dày đặc, một tay cầm đèn, một tay nhấc bao quần áo cũ ra. Lúc này, sau lưng tôi lại vang lên tiếng sột soạt, nghe như tiếng thở không đều của ai đó. Tôi sợ đến mức lông trên người dựng ngược, quay đầu lại quát lớn: “Ai?” Giọng tôi bị nỗi sợ hãi bóp méo đến chói tai. Trước mặt lại im lặng như tờ.

Tôi mò từng bước một cách thận trọng về chỗ âm thanh phát ra, huơ đèn pin để mở rộng tầm nhìn. Trong căn phòng cũ kỹ đơn độc, những bức tường bám bụi, mặt đất tối om, đồ đạc bừa bộn, ngoài tôi ra thì không còn một vật thể sống nào khác. Hay là chuột? Tôi tự mình an ủi bản thân.

Tôi quay trở về, mở chiếc hộp cát-tông in hoa văn, lấy ra 4 quyển nhật ký được đặt trong túi giấy, lật giở những trang sách đã ố vàng, đập vào mắt là 5 chữ in hoa “NHẬT KÝ CỔ NHƯỢC THÀNH”. Tôi thở phào một cái, cuối cùng cũng tìm ra, có thể chân tướng mà tôi lao tâm khổ tứ đi tìm bấy lâu nay lại nằm phủ bụi ở nơi này. Tôi nhét quyển nhật ký vào lại túi giấy, kẹp dưới nách, chuẩn bị rời đi. Lúc này, sau lưng đột nhiên vang lên tiếng bước chân gấp gáp. Tôi còn chưa kịp ngoái đầu, thì ở góc dưới bên phải cổ có một cảm giác dồn nén ập tới, đầu óc tôi quay cuồng rồi mất đi nhận thức.

Không biết bao lâu sau, tôi mới mơ hồ tỉnh lại, trước mắt tối sầm, bốn bề lặng thinh, có khoảng một phút, tôi đã không biết mình đang ở đâu. Đến khi nhớ lại những gì xảy ra trước khi ngất, một nỗi sợ hãi lướt qua trong lòng tôi: Tôi đang bị giam giữ. Tôi định vùng vẫy đứng dậy thì phát hiện ra hai chân hai tay mình đã bị trói chặt. Tôi đang ở đâu? Ai đã trói tôi? Ngươi định làm gì? Tôi mở miệng hét lớn mới phát hiện giọng mình đã khàn đến mức không nhận ra, tiếng ù ù vọng lại trong tai, bụi bay ngập miệng. Tiêu rồi, tôi bị bỏ lại ở một nơi tối tăm, không thể nhúc nhích được, hung thủ chẳng cần phải tự ra tay, chỉ cần bỏ mặc tôi, không quá ba ngày, tôi sẽ chế.t mà chẳng ai hay biết.

Không biết do sợ hãi hay hối hận, hai hàng nước mắt mặn chát lăn dài trên má, tôi có thể cảm nhận được cái lạnh giá ấy. Tôi không kìm được mà run như cầy sấy.

Mãi lâu sau, tôi mới dần bình tâm trở lại, đầu óc bắt đầu khôi phục khả năng suy nghĩ, mắt cũng thích ứng được với màn đêm. Hóa ra tôi đang ngồi dựa vào một góc tường, hộp cát-tông chất đầy trước mặt, che khuất tôi hoàn toàn. Trong đó có một chiếc hộp cát-tông bên trên in hình hoa văn mà tôi quen thuộc. Thì ra tôi bị nhốt ở nhà kho trong căn nhà của Tiền Học Lễ. Liệu có ai phát hiện ra tôi ở trong căn phòng hoang tàn, lạnh lẽo này không? Liệu tôi có thể sống sót được không?

Tôi lại nhớ đến tiếng thở nặng nề, tiếng bước chân gấp gáp, và cú đánh mạnh vào cổ mà tôi nghe thấy trước khi hôn mê. Hắn là ai? Hắn còn ở trong căn phòng không? Nghĩ đến việc còn có một kẻ khác đang theo dõi mình từ trong màn đêm, có thể tấn công mình bất kỳ lúc nào, tôi lại run lên vì sợ. Đúng rồi, nhật ký, 4 quyển nhật ký đó. Tôi cố gắng dùng đôi tay đã bị trói chặt mò mẫm về phía trước, chiếc túi giấy mà tôi cầm trong tay trước khi bị ngất đi đã không thấy đâu nữa, điện thoại trong túi tôi cũng biến mất. Kẻ đó nhất định vì 4 quyển nhật ký kia mà đến, có khi nào là Trần Quảng không? Với tính cách lạnh lùng tàn nhẫn của ông ta, nhằm che dấu chứng cứ phạm tội thì việc gì cũng có thể làm.

Nếu là Trần Quảng làm, thì khả năng sống sót của tôi gần như bằng không. Nhưng mà, tại sao ông ta không giế.t tôi? Ông ta đã giế.t bao nhiêu người như vậy, thêm một người nữa cũng chẳng là gì. Đột nhiên nhớ tới bộ dạng thê thảm khi chế.t của Tô Nam và Lâm Mỹ Khuyên, trái tim tôi như hòn đá rơi khỏi núi cao vạn trượng, đâm thẳng xuống vực sâu. Nhẽ nào ông ta định phân xác tôi thành trăm mảnh? Nhưng mà, ông ta đâu có thù hận gì với tôi? Trước khi giế.t hại Tô Nam và Lâm Mỹ Khuyên, có khi nào ông ta cũng bắt giam bọn họ, đợi đến khi trời mưa mới ra tay? Nhiều người có điểm yếu là hay suy nghĩ mọi việc theo chiều hướng tồi tệ nhất, tôi cũng vậy, thế là càng nghĩ lại càng sợ hãi. Trong bóng tối vô biên, tôi thu mình thành một đống.

Đói khát, sợ hãi, thê lương, tuyệt vọng, tôi bị dày vò trong thứ cảm xúc phức tạp, mỗi phút đều kéo dài như một năm. Tôi thậm chí bắt đầu oán trách tên hung thủ, tại sao không nhân lúc tôi hôn mê mà giế.t quách tôi đi, còn hơn bắt tôi phải chịu cơn dày xéo vô biên, đợi chờ cái chế.t đến trong sự tuyệt vọng như thế này.

13.

Ngày 25 tháng 8 năm 2001. Trời nhiều mây hửng nắng.

Căn nhà cũ của Tiền Học Lễ.

Trong lúc tôi đang chạy Đông chạy Tây để tìm kiếm sự thật về Trần Quảng, tổ trọng án lại nhận được một cuộc điện thoại nặc danh, lại chỉ đích đanh muốn nói chuyện với Thẩm Thư. Dù số điện thoại hiển thị không giống lần trước nhưng Thẩm Thư dựa vào ngữ điệu và cách dùng từ, khẳng định người này và người gọi điện nặc danh lần trước là một. Thậm chí Thẩm Thư còn cho rằng, người này chính là cái kẻ có chế.t cũng không chịu mở miệng – Đào Anh, nhưng cậu lại không có cách nào buộc Đào Anh phải thừa nhận thân phận. Hơn nữa, cậu cũng không biết trong tay Đào Anh nắm được bao nhiêu nội tình.

Không nghe rõ giọng nói trong điện thoại nhưng có thể đoán được đối phương đang rất sợ hãi, không nắm chắc tình hình, bởi vì hắn nói chuyện lúc vội vàng, lúc lại ngắc ngứ, giọng còn nghẹn ngào như sắp khóc. Điều này càng khiến Thẩm Thư thêm chắc chắn với phán đoán của mình, đối phương chính là Đào Anh – người đã nhận được những hình ảnh về cái chế.t thê thảm của Tô Nam và Lâm Mỹ Quyên, thực tế cũng không phải ai cũng giữ được thần kinh thép khi phải đối diện với cái chế.t đang cận kề. Đối phương vẫn không ngừng khóc trong điện thoại, Thẩm Thư cẩn thận dò xét trong lời nói của hắn để tìm kiếm manh mối có giá trị, nhưng dù thế nào cũng không nắm được mấu chốt. Lúc này, vị trí bốt điện thoại công cộng đã được xác định dựa vào số điện thoại kia, nhân viên đồn cảnh sát được cử tới hiện trường ngay tức khắc.

Tuy nhiên, đối phương dù không khống chế được cảm xúc nhưng đầu óc vẫn còn rất tỉnh táo, hắn tính toán thời gian rất chính xác, khóc lóc được hai ba phút sau thì chuẩn bị cúp máy. Thẩm Thư xét thấy tình hình vẫn chưa có cách nào nắm được thóp đối phương, bèn gọi hẳn tên hắn ra: “Anh là Đào Anh?” Đối phương im lặng mấy giây, rồi lại ngập ngừng không rõ ràng, đáp: “Không, không phải, đợi…… đợi đến lúc cần thiết, tôi sẽ nói cho anh biết…… tôi là ai.” Thẩm Thư lo lắng hắn sẽ nhân cơ hội này mà cúp điện thoại, vậy nên mỗi câu cậu ta nói ra đều rất thẳng thừng: “Hung thủ là ai? Phối hợp với cảnh sát, anh có thể bảo vệ chính mình.” Đối phương lại im lặng phút chốc, rồi đột nhiên bật khóc nức nở không nói thành lời: “Tôi không biết…… sao mà tôi…… biết được? Tôi nghĩ, chắc chắn có liên quan đến chuyện đó, nhưng chuyện đó đã bị giấu kĩ rồi, trừ chúng tôi ra……. sao lại có người khác biết được?” Trong tiếng khóc thống khổ thê lương bị gián đoạn, là âm thanh tút tút của điện thoại.

Lúc cảnh sát dân sự có mặt ở bốt điện thoại công cộng thì thấy máy điện thoại buông thõng lắc lư trong không trung, bên chiếc điện thoại không có một bóng người.

Thẩm Thư tay vẫn còn cầm máy, ngẩn ngơ thất thần. Tô Nam, Lâm Mỹ Quyên, (Đào Anh?) đều bị cuốn vào một chuyện gì đó, chuyện này nghiêm trọng tới mức có thể đem đến họa sát thân. Cậu ta dựa vào suy đoán, bất kể kẻ nặc danh kia có phải là Đào Anh hay không, thì chắc chắn hắn cũng không biết hung thủ là ai, cũng có nghĩa là, chuyện mà bọn họ gây ra không chỉ là gây thù oán đơn thuần. Cuộc sống của ba người họ không hề có liên quan gì đến nhau, điểm chung duy nhất là tuổi tác tương đương, đều là sinh viên đại học Công Nông Binh, chẳng lẽ chuyện này xảy ra lúc học đang đi học? Một ngòi nổ vừa xa vừa dài, bao nhiêu năm sau mới bùng phát, rốt cuộc đang ẩn giấu một mối thù khắc cốt đến thế nào đây?

Lúc này là 4 giờ chiều, tôi đang cùng Trần Quảng điều tra vụ án ở thôn Tiểu Vương, còn cách 8 tiếng cho đến khi họ phát hiện ra tôi mất tích.

Cảm ơn bố. Tôi đã từng giới thiệu trong phần “Để người chế.t được nhắm mắt”, bố tôi từng đảm nhiệm chức vụ trưởng phòng Cảnh sát nghiên cứu, trước khi ông về hưu, tôi vừa tốt nghiệp đại học và đang tìm kiếm việc làm, còn đang phân vân giữa làm việc ở Sở Cảnh sát hay Viện kiểm sát, ông ấy đã giúp tôi ra quyết định, chọn phòng khoa học kĩ thuật của Sở Cảnh sát. Bố tôi đã làm cảnh sát quá nửa đời người, tính cảnh giác rất cao, tôi cũng không phải ngoại lệ, tối nào ông cũng sẽ kiểm tra tôi. 10 giờ tối hôm đó, điện thoại bàn nhà tôi không ai nhấc máy, gọi di động cũng không được, ông liền nổi má.u nghề nghiệp, tìm hẳn phòng khoa học kĩ thuật kiểm tra xem đêm nay tôi có nhận nhiệm vụ phải điều động ra ngoài không, sau đó gọi điện thoại tới thẳng nhà Trần Quảng đòi gặp người. Trần Quảng cười ha ha với ông, bảo: “Con gái hai mươi tuổi đầu, nửa đêm ra ngoài chơi một chút, anh sợ cái gì?” Bố tôi không thích nói chuyện mập mờ với ông ta, cứng rắn bảo: “Con gái tôi, tôi hiểu, nó biết tối nào tôi cũng sẽ gọi điện kiểm tra tình hình của nó, bất kể đi đâu nó cũng sẽ báo cho tôi, nó là người của phòng các cậu, cũng là người cậu dẫn dắt, tôi phải tìm cậu đòi người.

Trần Quảng không đấu lại được bố tôi, đồng ý giúp ông đi tìm người.”

Sau khi hỏi một lượt từ trên xuống dưới các nhân viên ở phòng khoa học kĩ thuật mà không ai biết tôi đi đâu, Trần Quảng bèn gọi điện cho tổ trọng án. Thẩm Thư đang ở trong phòng kí túc cá nhân dành cho cảnh sát nằm sát vách phòng của tổ trọng án, nghe thấy có người báo cáo, phản ứng đầu tiên của cậu ta là “Chế.t rồi, xảy ra chuyện rồi”, cậu ta vội vàng điều động nhân sự đi tìm kiếm tung tích của tôi.

Một đồng nghiệp 11 giờ đêm vẫn chưa về nhà, dù nói thế nào thì cũng chẳng phải chuyện gì to tát, đến đồn cảnh sát khu quản hạt cũng sẽ không ra tay tìm kiếm, đội trọng án càng không nhất thiết phải làm lớn chuyện, nhỡ đâu tôi có việc ra ngoài một chút thôi thì sao. Hành động của Thẩm Thư, không ít thì nhiều cũng là sai sót trong công tác chỉ đạo. Tại sao cậu ấy lại có phản ứng dữ dội như vậy? Tại sao phải cử cả nhân sự tổ điều tra đi tìm kiếm? Sau này tôi phân tích, chỉ có thể là vì cậu ta sớm đã để ý đến hành tung của tôi, nói không chừng, cậu ta đã ngấm ngầm cho điều tra Trần Quảng, thế nên trăm sông mới cùng đổ về một mối, chúng tôi đã cùng nghĩ tới một nơi. Thế nhưng đây chỉ là suy đoán của tôi, Thẩm Thư dù có nói thế nào cũng không chịu nhận, chuyện cậu ta đã không muốn nói thì dù có tra tấn cũng đừng mong cậu ta sẽ nôn ra dù chỉ một chữ.

Tổ trọng án chỉ mất nửa tiếng đồng để tìm được Tiền Học Lễ. 11 giờ 35 phút đêm hôm đó, tôi được giải cứu.

Mặc dù chỉ bị bắt giam 4 – 5 tiếng đồng hồ, tôi vẫn cảm thấy như trải qua một kiếp luân hồi đằng đẵng. Bóng tôi vô biên và hoàn cảnh tuyệt vọng đó đã để lại trong tôi một bóng đen sâu thẳm. Tới tận bây giờ, tôi vẫn sợ ở một mình trong bóng tối, mỗi lẫn như thế là tôi lại toát mồ hôi, toàn thân lạnh toát, nói chuyện lắp bắp. Triệu chứng này theo Tâm lý học gọi là “Hội chứng căng thẳng sau sang chấn”, tâm lý dễ bị tổn thương và cũng khó trị khỏi được.

Thẩm Thư, Vu Ngân Bảo, Mã Văn Siêu cùng một tốp 10 cảnh sát của đồn đã xông vào căn nhà cũ của Tiền Học Lễ. Vì không chắc chắn hung thủ có ẩn nấp trong phòng hay không, cũng không biết sẽ phải đối diện với nguy hiểm gì nên tất cả mọi người đều rất căng thẳng, lên đạn súng, mò mẫm tìm kiếm. Họ không phát ra bất kì một âm thanh nào, ở trong bóng tối, tôi chỉ có thể nghe thấy những tiếng bước chân rất khẽ, không rõ là bạn hay thù, tâm lý tôi đã suy sụp nên không thể chịu nổi bất kì cú sốc nào nữa, tôi chỉ muốn bật khóc thành tiếng.

May là Thẩm Thư không tìm kiếm trong im lặng, cuối cùng cậu ta cũng mở miệng nói: “Thục Tâm, cô ở đâu?” Giọng nói rất khẽ, nhưng lại có thể đánh thức tôi trong cơn hoảng loạn. Tôi khóc, nước mắt giàn giụa, cảm giác đó cũng giống như người bị xử án tử hình, vào đúng lúc đang đối diện với mũi súng đen ngòm sâu hoắm trên pháp trường bỗng nhiên nhận được tuyên cáo vô tội. Nắm được sợi dây sinh mệnh, cảm giác khi ấy vạn vật trên thế gian đều thật đẹp đẽ, cuộc đời thật đáng quý, tất cả những phiền não trong cuộc đời dù ít dù nhiều cũng đều nhẹ nhàng tan biến, không để lại dấu tích.

Thời khắc được giải cứu, giải thoát khỏi tất cả sự bẩn thỉu, mệt mỏi, bết bát, tàn tạ, suy yếu là thời khắc tôi khó quên nhất trong cuộc đời, cũng là thời khắc tôi vui mừng nhất. Họ kiểm tra thấy tôi không có vết thương ngoài nào, sau đó cử người và xe đưa tôi đến bệnh viện gần nhất để kiểm tra tổng thể.

Cảm ơn bố. Cảm ơn tổ trọng án. Cảm ơn…… Trần Quảng?

Trong căn phòng cũ kĩ này, đâu đâu cũng là vết dầu loang và bụi băm, một vị trí đắc địa cho nghi phạm che giấu dấu vết phạm tội. Thẩm Thư vẫn tỏ thái độ như bình thường, không tìm Trần Quảng yêu cầu hỗ trợ mà trực tiếp gọi điện thẳng cho trưởng phòng khoa học kĩ thuật, cử một chuyên gia dấu vết khác mà chưa từng tiếp xúc với vụ án này tới khám xét hiện trường. Theo quy trình mà nói, báo cáo với trưởng phòng hay phó phòng đều không có gì khác biệt, nhưng bởi vì vụ án này vẫn luôn do Trần Quảng phụ trách, hành động đó của Thẩm Thư hơi có ý mạo phạm. Đương nhiên, xét về góc độ vụ án, thà rằng khiến Trần Quảng phật ý còn hơn là để cho dấu vết phạm tội quan trọng ở hiện trường bị phá hủy.

Nhưng kết quả điều tra khiến mọi người vô cùng thất vọng. Hiện trường chỉ có dấu chân của tôi và các nhân viên cảnh sát, hoàn toàn không có bất kì dấu chân của ai khác. Chuyên gia dấu vết dựa vào mức độ nông sâu trên mặt đất để phán đoán, kẻ bắt cóc tôi đã dùng chăn bông bọc hai chân của hắn lại để di chuyển. Làm theo cách này có hai cái lợi, thứ nhất là giảm âm thanh tiếng bước chân xuống tối thiểu, tự do di chuyển mà không bị phát hiện, thứ hai là không để lại dấu chân, tránh để phía cảnh sát bắt được bất kì một manh mối nào. Chuyên gia dấu vết có thể dựa vào dấu giày của kẻ tình nghi để xác định độ tuổi, chiều cao, cân nặng, cùng những đặc điểm sinh lý, thậm chí nghề nghiệp, tình trạng kinh tế hoặc thành phần xã hội, nhưng lại không thể dựa vào dấu chăn bông để đưa ra bất kỳ một kết luận chính xác nào. Ngay đến cả sợi dây thừng trói tôi cũng là “cây nhà lá vườn”, một sợi dây thừng được phát hiện ra ở trong căn nhà. Đây là một tên hung thủ có đầu óc giảo hoạt, năng lực phản điều tra mạnh chưa từng thấy.

[Còn tiếp]

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *