Phần lớn mọi người dựa vào các ghi chép trong Đại Việt Thông Sử của Lê Quý Đôn, Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, và trích dẫn truyện Nguyễn Trãi trong Tang Thương Ngẫu Lục của PĐH, Nguyễn Án để cho rằng Nguyễn Trãi đã tham dự hội thề Lũng Nhai năm 1416, trước ngày Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa. Sách giáo khoa Lịch Sử 7 cũng có ghi chép tương tự.
Khẳng định này càng được củng cố, khi vào năm 2014, Giáo Sư Phan Huy Lê đã công bố trong một bài viết [1] có tổng cộng 8 văn bản Hội thề lũng nhai được tìm thấy :
– Văn bản trong sách tại đền vua Lê ở Kiều Đại (Thanh Hóa): Được giáo sư Hoàng Xuân Hãn phát hiện vào năm 1943, khi đi tản cư ở TH, được một cụ Từ giữ đền cho xem. Nhưng đến năm 2013, văn bản này đã biến mất khỏi đền. Thật may mắn là giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã chép lại nó vào năm 1966. Và niên đại của văn bản này là từ năm Bảo Đại thứ 6 (1931).
– Bản hội thề được lưu giữ tại gia đình dòng họ Lê Nhân Chú (một công thần khai quốc khác của thời Lê) ở xã Vân Yên, Đại Từ, Thái Nguyên. Theo xác minh của Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, bản này có niên đại vào thời Nguyễn, sau 1810 và trước 1923.
– Bản hội thề được lưu giữ tại dòng họ Đại Tư Đồ Lê Sát. Đây là bản hội thề có niên đại cổ xưa nhất (có thể từ năm 1715) và quá trình tìm ra bản hội thề này cũng rất li kỳ: Năm 1971, một thầy giáo cấp 2 ở Định Hải, Thanh Hóa tìm thấy một quyển sách chữ Hán trong nhà họ của Lê Sát, và tặng nó cho nhà sử học Nguyễn Diên Niên. Sau khi nghiên cứu, Ty Văn Hóa Thanh Hóa (nay là Sở Văn Hóa Tỉnh Thanh Hóa) vào năm 1975, đã công bố bản hội thề Lũng Nhai có kẹp trong cuốn sách.
– Một bản còn được lưu giữ trong dòng họ của họ Đinh ở Trung Chính (thuộc dòng dõi Đinh Liệt). Văn bản này tới nay đã bị thất lạc, GS Phan Huy Lê Chỉ còn ghi chép lại được những ý chính.
– Một bản được lưu giữ trong gia đình dòng họ Nguyễn Thận. Bản này cũng bị thất lạc, tuy nhiên may mắn là GS Phan Huy Lê đã chụp ảnh lại được. Niên đại của bản hội thề này cùng năm với gia phả của họ Nguyễn Thận, được sao lại vào năm 1864 từ một bản cổ khác.
– Bản hội thề được chép trong “Trịnh tộc gia phả” của một chi họ Trịnh Khả ở Cự Đà (Thanh Oai, Hà Nội). Văn bản này có niên đại vào thời Nguyễn (sau năm 1854). Văn bản này được nhà sử học Yao Takao là Giáo Sư lịch sử của ĐH Hiroshima phát hiện và tặng lại cho GS Phan Huy Lê.
– Bản hội thề nằm trong Gia phả của dòng họ Lê Văn An tại đền thờ ở xã Thọ Lâm, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Gia phả là bản sao chép có niên đại từ năm 1864.
– Một văn bản hội thề khác được phát hiện tại dòng họ Đỗ Bí và Viện nghiên cứu Hán- Nôm. Văn bản này có niên đại vào năm Bảo Đại thứ 19 (1944).
Điểm chung của 8 văn bản Văn Thề Lũng Nhai này là gì? Là ở chỗ, trong dach sách 18 người cùng uống máu ăn thề với Lê Lợi trong ngày đầu tiên của khởi nghĩa Lam Sơn, có tên một số người bị thay đổi qua từng văn bản, nhưng tên NGUYỄN TRÃI tồn tại trong cả 8 văn bản! (Xem bảng để biết thêm chi tiết)
Với tổng cộng từng ấy bản hội thề Lũng Nhai còn nguyên giấy trắng mực đen, thu thập được từ dòng họ của những Đại Công Thần hàng đầu như Lê Sát, Đinh Liệt, Trịnh Khả, Lê Nhân Chú, v…v…Đặc biệt là văn bản hội thề của dòng họ Đại Tư Đồ Lê Sát còn có lịch sử hơn 300 năm, thì việc Nguyễn Trãi tham gia vào hội thề Lũng Nhai tưởng chừng như là chuyện hiển nhiên như quả đất quay quanh mặt trời, không ai có thể phủ nhận được, và dường như SGK Lịch Sử 7 ghi lại sự kiện này về Nguyễn Trãi là cực kỳ tôn trọng sự thật, tôn trọng hiện vật, tôn trọng Lịch Sử.
Tuy nhiên có thật là mọi chuyện đã nên khép lại ở đây chăng?
Trong vòng hơn 20 năm, từ thập niên 1960s đến 1980s, có nhiều nhà sử học, mà tôi xin phép gọi họ là phái “Counter Nguyễn Trãi – Lũng Nhai” đã liên tục lên bài ở tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử để bày tỏ những nghi vấn của họ về trường hợp của Nguyễn Trãi. Tôi xin tóm tất cả những luận cứ của họ như sau:
– Thứ nhất, đó là ghi chép của Lê Quý Đôn trong Đại Việt Thông Sử và Toàn Việt Thi Lục (một tác phẩm khác của LQĐ) là không thống nhất. Đại Việt Thông Sử thì chép rằng Nguyễn Trãi tìm đến Lê Lợi ngay từ những ngày đầu, trước khi phất cờ khởi nghĩa, trong khi đó Toàn Việt Thi Lục thì chép rằng “Nguyễn Trãi mang roi ngựa đến yết kiến Lê Lợi ở Lỗi Giang” Nên nhớ rằng các tác phẩm của Lê Quý Đôn mà chúng ta được đọc ngày nay đều không phải là tác phẩm nguyên bản của ông. Do vậy, với cách ghi chép bất nhất như vậy, hoàn toàn có khả năng thông tin trong Đại Việt Thông Sử là một thông tin sai, được chắp ghép vào sách bởi người đời sau [2].
– Năm 1966, Sử gia Bùi Văn Nguyên cho rằng ghi chép trong Tang Thương Ngẫu Lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án về việc Nguyễn Trãi tham dự Hội Thề Lũng Nhai, cũng như câu chuyện “Lê Lợi Vi Quân- Nguyễn Trãi Vi Thần” đều chỉ là những truyền thuyết, như rất nhiều những câu chuyện khác trong tác phẩm này. Bùi Văn Nguyên cũng bổ sung thêm cho thuyết “Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang” khi dẫn ra nhiều bằng chứng: Bài tựa Ức Trai Thi Tập của Trần Khắc Kiệm viết năm 1480 – 38 năm sau khi NT mất; Lời Phê của Lê Thánh Tông về Nguyễn Trãi năm 1494 trong Quỳnh Uyển Cửu Ca; Bản sắc phong của Tương Dực Đế cho Nguyễn Trãi vào năm 1512; và kể cả Toàn Việt Thi Lục của Lê Quý Đôn (đã kể bên trên); lẫn Cương Mục, đều cùng khẳng định rằng, Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi lần đầu ở Lỗi Giang- Lỗi Thủy. Và Chính vì gặp Lê Lợi muộn hơn, nên Nguyễn Trãi chỉ được phong tước trong đợt phong thứ hai năm 1428, sau những người ở Lũng Nhai, và ông chỉ được phong tước Quan Phục Hầu (bậc hầu hạng 8 trong 9 bậc).
Ngoài ra, trong một bài thơ (Tự Thuật – số IX) Nguyễn Trãi có Viết:
Ở thế nhiều phen thấy khóc cười.
Năm nay tuổi đã ngoại tư mươi.
Lòng người một sự yêm chưng một ;
Đèn khách mười thu lạnh hết mười.
Theo Sử gia Bùi Văn Nguyên, thì đây là tâm sự của một người chưa đạt được công danh, buồn bã vì thời thế. “Ngoại tư mươi” tức là năm Nguyễn Trãi đã hơn 40 tuổi, và nếu lấy năm sinh của ông (1380) là năm mốc, thì có thể thấy rằng, Nguyễn Trãi hẳn đã chưa gặp Lê Lợi trước năm 1420) [3]
– Tới năm 1967, sử gia Bùi Văn Nguyên tiếp tục tung thêm những lập luận hiểm hóc sau: Ông cho rằng trong danh sách 51 người ăn thề của Đại Việt Thông Sử, và 18 người như trong văn thề của nhiều bản gia phả, đã thiếu nhiều cái tên vô cùng quan trọng như Lê Chiến, Lê Bị, Lê Khôi, Lê Lai (vốn là người mà Thái Tổ dặn rằng con cháu và quần thần phải LUÔN LUÔN nhớ tới), Lê Liệt, Lê Ngân, thậm chí cả Nguyễn Xí…mà lại có nhiều cái tên không mấy đáng chú ý. Đồng thời, truyền thuyết luôn kể lại rằng Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn tới Lam Sơn cùng nhau, vậy tại sao tên của Trần Nguyên Hãn không xuất hiện trong hội thề ở bất kỳ văn bản nào?
Thêm vào đó, Bùi Văn Nguyên chỉ ra rằng, trong số hai văn thần chắc chắn đã tham gia từ những ngày đầu là Lê Văn Linh và Bùi Quốc Hưng, thì Nguyễn Trãi với tư cách là “Quân sư số một”, tại sao lại được phong tước dưới hai người này rất sâu? (Lê Văn Linh và Bùi Quốc Hưng đều được phong tước đợt một, Linh được phong Thái phó Khánh Quận Công và Hưng được phong Thái Phó Trang Quận Công). Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn KHÔNG được cử vào ban tổ chức lễ phong An Nam quốc vương cho Lê Tư Tề vào năm 1429. Trong khi đó Lê Văn Linh và Bùi Quốc Hưng được nằm trong ban tổ chức? [4].
– Nguyễn Lương Bích là một nhà sử học tiếp theo tham gia vào “battle” này, và theo tôi, ông cũng đã có một số lập luận mang tính chất “game changer” như sau:
NLB cho rằng trong Kiến Văn Tiểu Lục, Một tác phẩm khác của Lê Quý Đôn, cũng đã nói rằng Nguyễn Trãi gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang, và do vậy, hai trong ba tác phẩm của Lê Quý Đôn đã khẳng định điều này. Chỉ có Đại Việt Thông Sử là nói khác => Vấn đề nằm ở ĐVTS. Ngoài ra, một người như Nguyễn Trãi nếu như tham dự vào việc binh từ năm 1416-1418, vậy tại sao suốt 6,7 năm không có bất cứ hành trạng, công lao gì (hành trạng đầu tiên của Nguyễn Trãi đó là viết thư xin hòa với quân Minh vào năm 1423) [5].
Tới năm 1980, hơn 10 năm sau, NLB tiếp tục lập luận, lần này là đánh thẳng vào bằng chứng của GS Phan Huy Lê, tức là những bản văn thề trong gia phả của các công thần: NLB cho rằng tại sao những văn bản văn thề của nhà công thần mà lại có thể thiếu được tên Nguyễn Xí, trong NLB cũng đồng quan điểm với Bùi Văn Nguyên, khi cho rằng nếu truyền thuyết Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đi với nhau là sự thực, thì tại sao Nguyễn Trãi có tên trong văn thề mà Hãn lại không có tên?
Nguyễn Lương Bích lại tiếp tục khẳng định những văn bản lời hội thề Lũng Nhai trong gia phả của những công thần có những sai sót vô cùng nghiêm trọng, và nếu những văn bản hội thề này lấy theo mẫu mà Nguyễn Trãi phụng chỉ Lê Thái Tổ chép lại để cất trong hòm vàng (năm 1430), thì Nguyễn Trãi không có lý do nào lại sai ngớ ngẩn như vậy được:
+ Bản văn thề ở nhà Lê Sát ghi năm thề nguyền là năm Mậu Thân (1428) chứ không phải là năm Bính Thân (1416), tức là năm đáng nhẽ bản văn thề phải ra đời.
+ Câu thứ hai của lời thề (bản nhà Lê Sát) chép “Tôi là Lê Lợi, phụ đạo chính lộ Khả Lam, nước Hà Nam” => Nguyễn Trãi cũng không thể hồ đồ nhầm tên nước ta từ An Nam thành Hà Nam, và đặc biệt trong một văn thề để khởi nghĩa đánh giặc, không ai xưng tên nước là An Nam mà có lẽ phải xưng là Đại Việt.
+ Trong 18 người cùng ghi tên trong bài văn thề, rất nhiều người mang họ Lê là quốc tính chỉ được phong sau khi đã chiến thắng quân Minh. Chẳng nhẽ Nguyễn Trãi hồ đồ tới mức khi chép lại văn thề năm 1416 đã dùng luôn quốc tính họ Lê cho tất cả các tướng?
+ Ngoài ra, trong gia phả của dòng họ Lê Sát, còn có một văn bản đó là “Lời thề nhớ công Lê Lai”. Trong văn bản này, ngay câu đầu tiên có chép rằng: “Thái Tổ Cao Hoàng Đế có dặn rằng…” => Thật vô cùng phi lý, bởi nếu văn bản trong nhà Lê Sát chép từ bản gốc của Nguyễn Trãi, thì không thể nào có một lỗi sai ngớ ngẩn như vậy được. Thời điểm Nguyễn Trãi phụng mệnh chép lại lời thề là năm 1430, lúc đó Lê Lợi chưa mất, cả triều đình chưa ai họp bàn để biết được Miếu Hiệu của Lê Lợi sẽ là “Thái Tổ Cao Hoàng Đế” để chép trước vào văn bản như vậy!
Nguyễn Lương Bích chốt lại lập luận của mình bằng bài thơ “Quy Côn Sơn Trung Tác’’, trong đó có nói rằng Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn sau 10 năm phiêu bạt (1407-1417), và nếu như vậy, thì rõ ràng Nguyễn Trãi không thể tham dự được hội thề Lũng Nhai, vốn đã diễn ra từ 1416 [6]
=> Kết luận lại, có thể thấy, SGK lịch sử 7 ghi lại việc Nguyễn Trãi tham dự hội thề lũng nhai là việc CÓ THỂ HIỂU ĐƯỢC, bởi sự tồn tại của tài liệu, hiện vật, văn bản. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu mổ xẻ rõ ràng ra, thì NHIỀU KHẢ NĂNG Nguyễn Trãi đã không tham gia hội thề Lũng Nhai.
Tiếp theo là giả thuyết của tác giả về việc tại sao rất nhiều người muốn nghĩ rằng Nguyễn Trãi đã tham dự hội thề Lũng Nhai:
– Do chiếu chỉ phục hồi danh dự và tìm lại các tác phẩm của Nguyễn Trãi của Lê Thánh Tông. Lê Tư Thành và mẹ vốn từng được bảo trợ bởi Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, nên hành động trả ơn của vị vua nổi tiếng nhất Việt Nam này có thể đã tác động lớn tới dân, vua, quan sau này (người mà Thánh Tông biết ơn => Chắc chắn là cựu thần quan trọng).
– Do sự liên quan chồng chéo của dòng họ Nguyễn Trãi tới dòng họ Nguyễn Bặc trước kia và Nguyễn Kim sau này (theo nghiên cứu của GS Phan Huy Lê), nên nhà Nguyễn rất có thể đã buff thêm cho Nguyễn Trãi [7].
– Do sự nổi tiếng của tác phẩm Vũ Trung Tùy Bút, do sự truyền bá của các cuốn gia phả của các cựu công thần, mà thường thì có niên đại từ sau giai đoạn Nam – Bắc Triều. Giai đoạn đã chứng kiến nhiều sự mất mát của các văn, thư tịch cổ, đồng thời cũng là giai đoạn diễn ra quá trình thu hút con cháu của các cựu công thần thời Lê Sơ vào Thanh Hóa để bắt đầu công cuộc Trung Hưng.
– Theo GS Yao Takao, do khi có một điểm du lịch ăn khách gắn liền với một nhân vật lịch sử, người ta thường tránh hạ thấp nhân vật lịch sử đó [8]. Côn Sơn là một địa điểm như vậy.
– Do sự nổi tiếng của “Bình Ngô Đại Cáo”, do tài năng của Nguyễn Trãi, do nhu cầu của dân tộc Việt Nam cần tìm một “văn thánh” đi đôi với “võ thánh” Trần Hưng Đạo.
Đồng thời do các văn nhân, nghĩa sĩ ở đồng bằng, “trung châu”, cần tìm một người, một lý do để có thể kết hợp, và cảm thấy “liên quan, có công” trong cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi – vốn là người miền ngược.
Tác giả văn dốt võ dát, hiểu biết còn hạn hẹp, nên mong quý đồng đạo nếu có ý kiến nào góp ý, xin hãy comment ở bên dưới.
Tác giả bài viết là Đỗ Huy Hoàng. Mọi hình thức sao chép, chia sẻ mà không sử dụng nút “share” đều phải xin phép tác giả.
Bibliography:
[1] Phan Huy Lê, Hội thề Lũng Nhai trong khởi nghĩa Lam Sơn – Văn bản và Người tham dự, 25 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành, 2014.
[2] Duy Minh, Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam-Sơn từ năm nào, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 87 (Tháng 6, 1966), 17-18.
[3] Bùi Văn Nguyên, Bàn thêm việc Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ lúc nào?, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 90 (Tháng 9,1966), 46-48.
[4] Bùi Văn Nguyên, Lại bàn về việc Nguyễn Trãi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ lúc nào?, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 99 (Tháng 6, 1967), 25-33.
[5] Nguyễn Lương Bích, Thử tìm hiểu thêm về vấn đề Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ bao giờ, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 98 (Tháng 5, 1967), 23-38.
[6] Nguyễn Lương Bích, Về thời điểm Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 192 (Tháng 03,1980), 27-32.
[7] Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang, Trở lại một vấn đề trong tiểu sử Nguyễn Trãi, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 201, (6,1981), 73-88.
[8] Yao Takao, Tập bài giảng Lịch sử về Việt Nam thời Lê Sơ, Khoa Lịch Sử, ĐHKHXH&NV, 4.
Theo: Đỗ Huy Hoàng – Nhóm Nghiên Cứu Lịch Sử

