*Ban đầu mình xem phim này và không hiểu gì. Search giải thích phim thì toàn ra các bài viết làm đầu mình quay hơn. Vì vậy nên mình tự giải thích và viết lại ra đây. Nếu mọi người thấy chỗ nào sai trong suy nghĩ của mình thì comment nhé.
———————-
“Giới tài chính thích dùng những từ khó hiểu, khiến ta nghĩ chỉ có họ mới làm được những điều mà họ đang làm. Hoặc tệ hơn nữa là để chúng ta mặc xác họ muốn làm gì thì làm.” (Adam Mckay)
Để hiểu được cuộc khủng hoảng tài chính 2008 thì đầu tiên hãy cùng đi qua những khái niệm cơ bản nhé:
– Ngân hàng thương mại là ngân hàng kiếm lợi nhuận chủ yếu qua chênh lệch lãi suất của các khoản vay và khoản cho vay
– Mortgage: Người dân muốn mua nhà nhưng không đủ tiền, họ đến vay ngân hàng thương mại và đổi lại là 1 tờ giấy quy định rằng nếu không trả đủ nợ thì họ sẽ bị tịch thu nhà. Tờ giấy đó là Mortgage hay hợp đồng vay thế chấp
– Ngân hàng đầu tư là ngân hàng kiếm lợi nhuận chủ yếu từ tiền hoa hồng qua các dịch vụ môi giới tài sản tài chính
– Security: Chứng khoán. Chứng khoán cơ bản gồm hai loại là chứng khoán cổ phần và chứng khoán nợ
– Bond: Trái phiếu. Trái phiếu là 1 loại chứng khoán nợ và nó đơn giản chỉ là giấy ghi nợ.
Tiếp theo, chúng ta làm quen với Mortgage-Backed Security (MBS), chứng khoán (trái phiếu) đảm bảo bằng thế chấp. Đây là nguồn cơn của cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 và để hiểu MBS, Ta có ví dụ sau:
Người A mua nhà và vay thế chấp của ngân hàng thương mại B. Sau đó, hợp đồng thế chấp này được mua lại bởi ngân hàng đầu tư C. Ngân hàng đầu tư C mua hàng trăm, hàng ngàn các hợp đồng thế chấp như vậy, gom chúng lại rồi gọi với cái tên khác đó là MBS. MBS được chính phủ Mỹ đảm bảo độ an toàn rủi ro và sau đó được chào bán cho các quỹ đầu tư
Ra đời vào những năm 1970s, MBS giải quyết 2 vấn đề chính, đó là:
– Nhu cầu mua nhà của thế hệ Baby Boomers đông đảo
– Nhu cầu đầu tư của các quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm,v.v.
(Ngoài ra còn có những công dụng khác như tăng vòng cấp vốn cho ngân hàng thương mại, tạo ra thị trường thứ cấp để tăng tính thanh khoản của các khoản vay,…) [1]
MBS gồm hai dạng chính:
– MBS pass-through: Các hợp đồng vay thế chấp được chuyển từ các ngân hàng thương mại đến các quỹ đầu tư thông qua ngân hàng đầu tư.
Trong mô hình này, ngân hàng thương mại vui mừng vì được tăng tính thanh khoản và tạo thêm được nhiều hợp đồng thế chấp hơn. Các quỹ đầu tư vui mừng vì có 1 kênh đầu tư rủi ro thấp và lợi nhuận ổn. Ngân hàng đầu tư vui mừng vì tiền thu được từ phí giao dịch. Mọi người đều kiếm chác được từ cỗ máy kiếm tiền này.
Nhưng dần dần, những người đủ tiêu chuẩn để vay thế chấp đều đã có nhà của mình >> Nhu cầu mua nhà giảm xuống >> Lượng hợp đồng thế chấp giảm theo >> Cỗ máy cũng ngừng hoạt động.
Không ai thích điều này cả và 1 ý tưởng để khắc phục ra đời: Bắt nguồn từ việc khi người vay thế chấp không trả được nợ thì tài sản thế chấp sẽ thuộc về chủ nợ. Điều này thực chất cũng tốt bởi giá nhà vẫn luôn tăng và chủ nợ có thể bán nhà với giá bằng hoặc cao hơn khoản nợ thất thu. Từ đó, Sub-prime mortgage (Vay thế chấp dưới chuẩn) ra đời. Nhưng chủ nợ ở mô hình này là các quỹ đầu tư, họ không muốn mất thời gian vào việc mua bán nhà >> lượng mua MBS giảm >> MBS mất giá. Ngân hàng không thích như vậy và họ đã nghĩ ra dạng MBS thứ 2
– Collateralized Debt Obligation (CDO): Nghĩa vụ nợ thế chấp. Ở dạng này, các hợp đồng thế chấp không nhất thiết phải chuyển chủ nợ thành các quỹ đầu tư, từ đó không gây phiền phức cho các quỹ như MBS pass-through. Cách nó hoạt động được trình bày trong các hình 1, 2, 3, 4 [2]. Sự ra đời của CDO khiến các quỹ đầu tư hứng thú trở lại và tiếp tục tham gia vào cỗ máy làm tiền.
—–
Quay trở lại với câu nói “Giá nhà luôn tăng”. Đây thực chất chỉ là 1 ảo tưởng!
Khi bộ máy làm tiền mang tên MBS xuất hiện, thu nhập của mọi người trong bộ máy ấy tăng lên >> chi tiêu của họ tăng lên. Và vì chi tiêu của người này là thu nhập của người khác >> thu nhập của cả nền kinh tế tăng lên. Các bất động sản nhờ thế mà tăng giá liên tục. Nhưng việc tăng giá này sẽ dừng lại khi thị trường còn lại toàn những người mua nhà với mục đích đầu cơ. Bởi khi đó, họ có chờ đến mòn đời cũng chẳng ai đến mua nữa. Hợp đồng thế chấp bắt đầu siết nợ, những người vay dưới chuẩn để mua nhà đầu cơ mất khả năng chi trả. Ngân hàng thay vì nhận được tiền thì lại có 1 căn nhà, rồi 2 căn, 3 căn, n căn. Ngân hàng cố gắng bán nhà để lấy tiền trả cho các quỹ, dẫn đến cung nhà lớn dần lên trong khi cầu không đổi. Cuối cùng là giá nhà giảm sâu và các CDO thể hiện rõ sự không chắc chắn.
Trong “The big short”, các tổ chức đánh giá tín dụng nhận ra sự lung lay này của CDO nhưng vẫn đánh giá chúng ở mức cao nhất. Vì sao? Vì nếu họ không làm thì công ty đối thủ sẽ làm…
Nhìn thấy mức tín dụng cao của CDO, các quỹ đầu tư đua nhau tìm mua đến mức mà CDO cũng cạn kiệt. Và các ngân hàng lại đưa ra ý tưởng tệ hơn nữa đó là CDO của CDO hay còn gọi là CDO tổng hợp
Hãy nghĩ như này: Chúng ta mua CDO vì tin rằng các khoản thế chấp sẽ được trả đủ và tiền sẽ về với chúng ta trong tương lai. Còn khi chúng ta mua CDO tổng hợp, chúng ta tin rằng các CDO sẽ được trả tiền đầy đủ và tiền sẽ về với chúng ta trong tương lai. Từ đó mà 1 nhóm các hợp đồng thế chấp trị giá $5m gánh trên mình $100m . Và khi $5m đó được thay bằng những căn nhà trị giá vài trăm ngàn thì $100m cũng biết mất theo.
Trong phim, chúng ta gặp 1 CDO manager. Công việc của anh ta là quản lý và môi giới các khoản CDO – thứ mà sớm hay muộn cũng sẽ làm cho cả nền kinh tế sụp đổ. Tiền bị biến thành các tài sản thế chấp giá trị thấp. Chi tiêu của người dân giảm. Các doanh nghiệp bị giảm doanh thu và bắt buộc phải giảm chi phí bằng cách sa thải nhân viên. Người người thất nghiệp và tệ nạn gia tăng. Nhưng anh ta không quan tâm, miễn là anh ta kiếm được bộn tiền sau mỗi giao dịch.
Phim cho mình cảm giác bớt sợ thế giới tài chính với 1 đống những thuật ngữ loằng ngoằng. Nhưng với thời lượng 130 phút thi phim chỉ có thể tập trung vào việc chỉ trích lòng tham của những người trong phố Wall mà không đề cập đến bộ máy đáng ra phải kiểm soát lòng tham đó: chính phủ Mỹ
Đạo luật “Hiện đại hóa dịch vụ tài chính” năm 1999 và “Hiện đại hóa hợp đồng tương lai” năm 2000 nới lỏng các quy định cho giới tài chính và mong rằng sẽ giúp cho nền kinh tế phát triển hơn [3]. Nhưng việc này đã dẫn đến những sản phẩm tài chính quá mới, khiến chính phủ và các tổ chức đánh giá tín dụng trở nên loay hoay. Rồi lòng tham kèm theo chủ nghĩa cá nhân lợi dụng thời cơ đó khiến ai cũng chỉ biết lợi cho mình. Ngay cả những người nhìn ra sự thối nát của thế chấp dưới chuẩn. Họ không cố gắng cảnh báo, ngăn cản mà tìm mua Credit Default Swap – thứ mà cho họ bộn tiền khi giá của các MBS đi xuống.
Kết quả là nền kinh tế sụp đổ. Chính phủ Mỹ chi hàng nghìn tỉ đô để cứu trợ cho các ngân hàng được cho là “too big to fail”. Hậu quả của sự tham lam và thờ ơ của giới tài chính cuối cùng lại được sửa chữa bởi mồ hôi và xương máu của người dân.
——————
References:
[1] Wikipedia Contributors, Fed. 1, 2021, “Mortgage-backed security”. [online] Wikipedia. Available at: <https://en.wikipedia.org/wiki/Mortgage-backed_security> [Accessed 5 February 2021].
[2] Jarvis, J., 2011. “The Crisis of Credit Visualized”. [online] Crisisofcredit.com. Available at: <http://crisisofcredit.com/> [Accessed 5 February 2021].
[3] Kimberli Amadeo, 2020. “2008 Financial Crisis Causes, Costs, and Could It Happen Again?”. [online] The Balance. Available at: <https://www.thebalance.com/2008-financial-crisis-3305679…> [Accessed 5 February 2021].




