NGUYỄN HUỲNH ĐỨC – MỘT TẤM LÒNG SON

1. XUẤT THÂN.

Ông sinh ra trong thời buổi loạn lạc, Đàng Ngoài có vua Lê – chúa Trịnh, Đàng Trong có chúa Nguyễn, Tây Sơn khởi nghĩa. Đúng là thời thế tạo anh hùng, lửa thử vàng gian nan thử sức.

Ông vốn họ Huỳnh, xuất thân ở Đàng Trong, gia đình nhiều đời ăn lộc chúa Nguyễn, nên ông một lòng tôn phò, tận trung báo quốc.

2. NGOẠI HÌNH.

Ông được sách sử triều Nguyễn mô tả là có “dung mạo khôi ngô, khoẻ mạnh hơn người, ai cũng coi là Hổ tướng”. Trẻ tuổi đã có sức mạnh hơn người, có tài đánh hổ bắt sấu.

3. KHỞI ĐẦU SỰ NGHIỆP.

Ông gia nhập vào đội quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn, đối đầu với quân Tây Sơn, phò chúa Nguyễn.

Sau này Đỗ Thành Nhơn vì chuyên quyền, tự quyết nên bị chúa Nguyễn Ánh giết chết, nhưng Nguyễn Huỳnh Đức thì được tin dùng.

4. CUỘC ĐỜI GẮN CHẶT VỚI NGUYỄN ÁNH.

Theo Nguyễn Ánh từ thời non trẻ, tay trắng, nhưng ông vẫn một lòng tôn phò, trung thành.

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện kể rằng: “khi vua tôi nhà Nguyễn phải chạy tan tác vì bị quân Tây Sơn đánh thua xiểng liểng ở Sài Gòn, Huỳnh Đức vẫn chạy theo cứu giá. Ông lựa đường đưa vua lên thuyền trốn về miền Tây.”

Có lần, Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi đến Định Tường thì bị sa lầy không đi được, chỉ mỗi một mình ông dám trở lại cứu chúa. “Lúc này trời nhá nhem tối, lại ở trong rừng khó xác định phương hướng. Nguyễn Huỳnh Đức một mình lớn tiếng thách thức quân Tây Sơn lại gần. Tiếng nói của ông vang dội cả rừng, khiến quân Tây Sơn nghi hoặc, sợ có mai phục nên rút lui. Nhờ vậy mà Nguyễn Ánh thoát được”.

Buổi đầu theo Nguyễn Ánh, chúa tôi không ít lần phải chạy trốn thừa sống thiếu chết vào rừng sâu. Nhiều đêm, vì quá mỏi mệt, Nguyễn Ánh đã gối đầu lên đùi Nguyễn Huỳnh Đức ngủ mê man… Đức thức trắng đêm đuổi muỗi cho chúa. Cảm động, Nguyễn Ánh ban cho ông quốc tính và xem ông như người trong hoàng tộc.

5. TRUNG NGHĨA SON SẮT

Chúa Nguyễn thua quân Tây Sơn ở Đông Tuyên, Nguyễn Huỳnh Đức bị bắt cùng 500 thuộc hạ, song Nguyễn Huỳnh Đức chỉ chịu cho Nguyễn Huệ thu dụng với lời hứa “Đánh Trịnh chứ không đánh Nguyễn”.

Tuy theo về với Nguyễn Huệ nhưng ông một lòng hướng về Nguyễn Ánh. Nguyễn Huệ còn cho nhiều châu ngọc, muốn tỏ sự hậu đãi để lôi kéo nhưng Huỳnh Đức vẫn không suy chuyển. Ông lập lời thề với Quang Trung rằng, chỉ giúp đánh họ Trịnh chứ không quay giáo đánh chúa Nguyễn. Vị anh hùng Tây Sơn vì thế càng mến tài trung nghĩa của ông.

Để trả ơn Nguyễn Huệ, ông theo Nguyễn Huệ ra Bắc Hà góp công phá Trịnh, nhờ có công lớn nên Đức trở thành phó tướng quản lí Nghệ An.

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 7) chép chuyện Nguyễn Huỳnh Đức như sau:

“Huệ thấy Đức khỏe mạnh tài trí, ý cũng muốn thu dùng, còn Đức thì cũng muốn về với chúa Nguyễn nhưng lại chưa thể, nên trong lòng thường phẫn uất. Một đêm, trong trại quân của Huệ, đang lúc mơ ngủ, Đức quát mắng Huệ rất to. Tướng của Huệ giận, muốn nhân đó đem giết đi, nhưng Huệ cho là lời trong giấc ngủ, không nỡ bắt tội, lại còn cho nhiều châu ngọc, ý muốn tỏ sự hậu đãi để lôi kéo nhưng Đức vẫn không vui”.

Tuy làm phó tướng quản lí Nghệ An, nhưng khi nghe tin Nguyễn Ánh lưu lạc ở Xiêm, ông liền bỏ lại tất cả, tìm cách lựa dịp trốn sang Vạn Tượng rồi qua Xiêm La lần theo tin tức của Nguyễn Ánh.

Theo Đại Nam chính biên liệt truyện:

“Người Man nghe tin liền cấp cho Đức lương khô, nhờ đó, Đức mới về được đến Xiêm La, nhưng khi đến Xiêm La thì Vua đã về Gia Định. Vua Xiêm La muốn giữ lại, Đức thề là thà chết chớ không chịu, nhân đó lại kể nỗi gian nan đi tìm chủ, khiến khí uất ngùn ngụt bốc lên mà thổ ra một hòn máu. Vua Xiêm La thấy không thể ép buộc được, cũng trọng mà cấp thuyền cho về”.

6. GIÚP CHÚA THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC

Đương thời, ông cùng Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn, Trương Tấn Bửu được người đời xưng tụng là “ngũ Hổ tướng Gia Định”. Là đối trọng gay gắt với Tây Sơn thất Hổ tướng.

Năm 1799, ông được thăng chức Chưởng quản Hữu quân dinh, ra đánh lấy được Phan Rí. Ông cũng dẫn quân tham chiến trận Thị Nại, chiếm thành Quy Nhơn giúp Nguyễn Ánh xoay chuyển cục diện chiến trường. Sau khi chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh giao ông trấn giữ thành Quy Nhơn.

Khi Ánh lên ngôi, Nguyễn Huỳnh Đức được phong Quận công. Năm 1810, ông được làm Tổng trấn Bắc thành kiêm Khâm sai Chưởng tiền quân. Sáu năm sau, ông làm Tổng trấn Gia Định cùng với Hiệp Tổng trấn Trịnh Hoài Đức, cai quản toàn miền Nam.

Trong “Nam Kỳ danh nhân” có chép lại đôi câu đối nơi lăng miếu của ông:

“Trung nghĩa cương thường, long hổ phong vân đính hội
Anh hùng mi mục, Tiêm, Miến, Lao, Man tri danh”.

Vị khai quốc công thần nhà Nguyễn được ví như Quan Công của nước Nam, với lòng trung nghĩa hiếm có.

-Quỷ Lệ-
Ảnh : Ấm chè


Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *