Vị khách không mời
Mỗi khi một cây nến sắp cháy hết, gã lại nhìn chăm chú vào nó.
Nhìn ngọn lửa thon dài, lung lay kia đang dần trở nên thấp bé, mỏng manh, giống như một người phụ nữ hào hoa phong nhã đang oằn mình, khô quắt trước sự tàn phá của thời gian.
Nhưng mà, tại khoảnh khắc trước khi bị dập tắt, dường như nó luôn hội tụ toàn bộ năng lượng còn lại để cháy hết mình một lần nữa. Sau khi tỏa ra ánh hào quang cuối cùng, nó sẽ sụp đổ như đậu, như gạo, như kim, cho tới khi từ từ biến mất.
Trước sự xâm chiếm của màn đêm, hình như, nó đang khóc than.
Mỗi lúc như này, gã lại thở ra một hơi thật dài. Gã cho rằng, luôn tồn tại một ý nghĩa nào đó ẩn sau những sự việc như vậy. Trên mặt đất, sự biến mất của ánh sáng tượng trưng cho sự giao thoa giữa ngày và đêm. Gã không hề thích cống nước ngầm. Chọn nơi đây, là bởi không còn sự lựa chọn nào khác. Khi ánh sáng vẫn còn, gã có thể thống trị thế dưới lòng đất. Một khi nến đã cháy hết, gã chỉ như một viên gạch, một đoạn thành giếng, một vũng nước thải — Thậm chí còn không thể đánh đồng với đám chuột và những loài bò sát khác.
Thế nên, gã không thể trách cô bé kia vì đã lãng phí nhiều nến đến như vậy.
Mấy ngày nay, ngoài kiếm thuốc men và đồ ăn ra, gã chỉ ngồi bên trong “căn phòng”, lặng lẽ nhìn cô bé. Có nhiều lúc, gã thấy cô bé giống như một cây nến, từ từ tiêu hao tia sinh mệnh cuối cùng. Khi cô bé luống cuống vặn mình, rên rỉ, khóc lóc thì trong đầu gã lại xuất hiện ánh hào quang cuối cùng đó.
Thế nhưng, ngọn lửa bập bùng ấy vẫn còn. Yếu ớt, nhưng không chịu khuất phục. Như kim, như gạo, lại như đậu.
Gã nghĩ, trong cơ thể nhỏ nhắn của cô bé, nhất định phải có một sợi tim nến vô cùng dài.
Bất luận thế nào, cô bé vẫn đang khỏe lại từng chút một. Tuy rằng phần lớn thời gian cô bé ngủ mê man, nhưng thân nhiệt không còn cao đến mức đáng ngại, hơn nữa thời gian tỉnh táo cũng kéo dài hơn. Nhất là khi đút cho ăn, số lần cô bé nhai và nuốt đã tăng lên đáng kể. Cảm giác thèm ăn của cô bé đang dần khôi phục, thường hay hút hộp sữa đến khi phát ra tiếng “rồn rột” mà vẫn không chịu ngưng.
Thỉnh thoảng, cô bé mở mắt nhìn gã. Mặc cho ánh mắt ấy luôn tỏ ra cảnh giác, bất an, nhưng mà, cô bé không kháng cự. Ngay cả khi dùng cồn để lau vết thương, cô bé cũng cố gắng để không cựa quậy. Điều này khiến gã nhớ tới con mèo mà mình từng nuôi. Khi gã tháo băng quấn chân cho nó, con mèo ấy cũng có bộ dạng như thế này.
Trong cái đầu thường xuyên hỗn loạn kinh khủng, con mèo tam thể vàng – trắng – đen ấy là một trong số những ký ức ít ỏi của gã. Khi đó, nó nằm giữa đường, ra sức bò vào vỉa hè, giơ vuốt về phía những ai có ý định lại gần, phát ra tiếng gầm gừ. Gã không sợ. Gã không biết những kẻ khác đang sợ hãi điều gì. Do đó, gã nhẹ nhàng túm lấy phần da ở sau gáy con mèo, lôi nó đến dưới chân tường bao.
Hai chiếc nhành cây và một sợi dây giầy đã giải quyết xong vấn đề. Con mèo không ngừng liếm láp cái chân bị gãy của nó, sau đó ngoan ngoãn, nằm xuống bên cạnh gã. Khi gã đứng dậy rời đi, con mèo cũng đứng dậy, bò tập tễnh theo sau gã. Thế là không cần nghĩ ngợi, gã lại xách con mèo lên, bỏ vào trong chiếc túi vải bố khoác theo bên mình.
Con mèo ở bên gã tầm hai tháng. Gã vẫn còn nhớ cái cảm giác ấm áp khi con mèo dựa vào chân gã, cuộn tròn ngủ say. Một buổi tối mùa đông, nó bỏ đi, rồi không trở về nữa. Gã không cảm thấy thất vọng, càng không cảm thấy đau lòng, dường như nó chưa từng xuất hiện trong cuộc đời gã vậy.
Thế nên, khi gã đem đồ ăn về “căn phòng”, phát hiện ra trên tấm đệm ấy trống trơn, gã cũng chỉ ngồi một lúc, sau đó từ từ ăn hết mấy chiếc bánh bao nhân thịt lợn cần tây đã nguội lạnh.
****
Cố Hạo cúp chiếc ống nghe điện thoại bàn xuống. Gọi cho Thái Vĩ cả sáng nay mà vẫn không thấy bóng dáng tên tiểu tử này đâu. Ông ta thử dùng chiếc máy nhắn tin, nhưng cũng không có hồi âm. Cố Hạo đi lại hai vòng trong căn phòng, quyết định sẽ tới Sở cảnh sát một chuyến.
Lời của lão Tô nghe có vẻ hợp tình hợp lý. Nhưng mà, dựa vào tầng lớp xã hội của anh ta, không nhẽ nào lại quen được một “người bạn” có thể giúp anh ta nhập hộ khẩu như thế được. Hơn nữa, thái độ lấp la lấp liếm của lão Tô, cũng khiến Cố Hạo hoài nghi lời anh ta nói là giả dối.
Đấy là chưa kể, dù có đúng như những gì anh ta nói, Tô Lâm nhập hộ khẩu vào gia đình người quen ở miền Nam để chuẩn bị thi Đại học, thì đáng ra phải làm thủ tục chuyển học chứ không phải là thôi học.
Muốn làm rõ những chuyện này, vẫn cần nhờ Thái Vĩ giúp một tay.
Cố Hạo xỏ giầy, với chiếc áo khoác từ trên giá xuống, vừa mặc vừa đi đến đầu giường để lấy bao thuốc và bật lửa. Lúc này, ông nghe thấy tiếng ai đó gõ cửa phòng.
Ông ta đáp một tiếng “Tới đây”, đi đến trước cửa, mở ra nhìn, không khỏi ngơ ngác.
Đỗ Thiến mang theo một nụ cười lo lắng bất an, gật đầu về phía ông ta: “Ông đang ở nhà đó à.”
Một bên tay của Cố Hạo còn chưa xỏ vào áo, giữ nguyên tư thế đó mà đơ ra độ hai giây: “Vâng.”
“Ông định đi đâu à?” Đỗ Thiến xoay người, “Thế để hôm khác tôi đến.”
“Đâu. Không có.” Cố Hạo vội đứng nép sang một bên, “Mời bà vào.”
Đỗ Thiến nhẹ nhàng bước vào, đứng giữa phòng nhìn quanh một hồi: “Thì ra nhà của một ông già độc thân là như này đó à.”
“Bà cứ ngồi đâu cũng được.”
Đỗ Thiến ngồi xuống chiếc ghế đặt bên cạnh giường, nhìn Cố Hạo, rồi lại chỉ tay vào chiếc áo trên người ông ấy.
Lúc này Cố Hạo mới nhận ra là mình đang mặc dở áo. Ông ta cởi nó ra, treo lại lên móc. Sau đó, ông ta không biết mình nên làm gì. Hai tay đút vào túi quần, rồi lại bỏ ra, ánh mắt không dời khỏi mũi giầy.
Đỗ Thiến lại cười: “Ông ngồi đi chứ.”
“Ồ, vâng.”
Cố Hạo bước đến bên thành giường, vừa ngồi xuống đã lập tức đứng dậy.
“Bà có khát không? Để tôi đi đun nước.”
“Thôi khỏi.” Đỗ Thiến cầm lấy tờ báo được đặt ở đầu giường, lật giở rồi lại đặt xuống, “Tôi tiện ghé qua, ngồi một lúc thôi rồi đi.”
Cố Hạo lại ngồi xuống, tiện tay nhét đôi tất xuống dưới ga trải giường.
“Nghỉ hưu rồi ông thấy sao?” Đỗ Thiến vẫn nhìn ông ta cười tủm tỉm, “Thoải mái hơn nhiều chứ?”
Cố Hạo túm tóc túm tai: “Nhàn hạ đến sắp không chịu nổi rồi đây.”
“Mới đầu bao giờ chả thế, hồi tôi mới nghỉ hưu cũng định ngủ nướng suốt ngày. Nhưng mà, cứ đến giờ là tỉnh. Nấu xong bữa, tiễn thằng Vĩ đi làm xong là chả biết làm gì cả.”
“Dù sao bà cũng còn chút việc để làm.” Cố Hạo cười, “Tôi có mỗi mình, ăn no cũng không lo cả nhà chết đói. Chẳng có ai để mà tôi quan tâm.”
“Ông có thể kiếm việc để làm mà.”
“Tôi thì biết làm gì được cơ chứ.” Cố Hạo chỉ ra ngoài cửa, “Lập một đội điều tra cho mấy ông già?”
“Ha ha.” Đỗ Thiến cười nghiêng ngả, “Ông này ngang thật. Không nghĩ ra được chuyện khác à?”
Cố Hạo chớp mắt: “Ví dụ như?”
“Ông có sở thích nào không này, hoặc là có gì mà mình luôn muốn làm hay không?
Cố Hạo nghĩ ngợi một hồi, thật thà thừa nhận: “Không có.”
“Ông đúng là một lão già nhạt nhẽo!” Đỗ Thiến khua tay, làm ra bộ định đánh ông ta một cái, “Thế thì tạo cho mình một sở thích nào đi.”
Cố Hạo cười như thể trốn tránh. Không khí trong căn phòng bỗng trở nên tế nhị.
“Nói vào vấn đề chính.” Đỗ Thiến dường như nhận thức được hành động ban nãy của mình có gì đó không ổn, mặt đỏ bừng bừng, “Tôi đang học nhảy và đàn Organ ở trong một trường lão niên, ông có muốn đến học không? Coi như để giết thời gian.”
“Có gì phù hợp với tôi không?”
“Thanh nhạc, cờ vây, tranh thủy mặc…… Tôi nghĩ cái nào cũng được.”
“Toàn cái tôi không biết.”
“Không biết mới cần phải học chứ.” Đỗ Thiến mắt trợn ngược, thò tay vào túi lấy ra một xấp tờ rơi, “Ông cầm lấy mà nghiên cứu.”
Cố Hạo nhận lấy, nhìn thấy trên tờ rơi có in hình một ông một bà, tóc bạc hồng hào. Bà lão thì mặc một chiếc váy màu sắc sặc sỡ, tay cầm chiếc micro; Ông lão thì đội chiếc mũ tròn vành nhỏ, trên tay cầm chiếc bút vẽ và bảng màu.
“Tuần nào cũng mở một lớp mới, báo danh trước một tuần là được.” Đỗ Thiến sáp lại gần, chỉ tay lên tờ rơi, “Đúng rồi, còn có cả thư pháp, cũng giúp dưỡng tâm tính đó.”
Cố Hạo ngửi thấy mùi thơm khô hanh, thoang thoảng trên người bà ấy, tim không khỏi đập mạnh, hơi thở cũng trở nên gấp gáp.
“Cầu kiện(12), bóng bàn cái gì cũng được.” Đỗ Thiến vẫn đang thao thao bất tuyệt, “Nhưng mà tôi nghĩ ông với lão Thái giống nhau, cả một đời khói lửa rồi, về già nên làm mấy việc tĩnh tâm, có lợi cho sức khỏe.”
“Ừm.” Cái tên đó giống như một tín hiệu, Cố Hạo đứng thẳng dậy, vứt đống tờ rơi ấy lên đầu giường, “Để tôi xem xét.”
“Được.” Đỗ Thiến phát hiện ra thái độ thay đổi của ông ấy, “Chọn xong thì gọi vào số máy ở bên dưới, cứ nói là cô Đỗ giới thiệu, sẽ được giảm học phí.”
“Được.”
“Vậy tôi đi trước đây.” Đỗ Thiến đứng dậy, cẩn thận cài cúc túi, chỉnh trang lại quần áo. Cố Hạo cũng đứng dậy, chẳng nói chẳng rằng.
Bà ấy đi ra cửa, sau khi mở cửa, lại xoay người chỉ vào đống bát đĩa chưa kịp thu dọn trên bàn uống nước: “Bình thường ông ăn mấy cái này à?”
Cố Hạo nhìn vào cái đĩa còn thừa lại nửa chiếc bánh bao và miếng đậu phụ nhự(13): “Đúng vậy. Dù sao cũng chỉ có một mình, ăn qua loa cho xong.”
“Thiếu chất lắm.” Ngữ khí của Đỗ Thiến trở nên nghiêm túc, “Hôm nào đến nhà tôi đi, tôi nấu món thịt kho hột vịt cho ông ăn.”
Cố Hạo gật đầu: “Được.”
“Nhất định phải tới.”
“Nhất định.”
Nụ cười lại xuất hiện trên gương mặt Đỗ Thiến: “Không cần tiễn đâu. Toàn khiến người khác phải lo lắng.”
Mãi đến khi cánh cửa phòng khép lại, Cố Hạo vẫn còn mải suy nghĩ xem người bà ấy nói là Thái Chí Lượng, Thái Vĩ hay là chính ông. Nhưng mà, ông ta đột nhiên chẳng muốn làm gì cả.
Quay về giường nằm, Cố Hạo tiện tay với lấy một tấm tờ rơi để xem, nhưng trong đầu thì cứ nghĩ đến món thịt kho hột vịt mỡ màng, nóng hôi hổi.
****
Khương Đình cẩn thận vặn chặt nắp bình nước, men theo hành lang từ từ đi đến lớp A1. Khi chuẩn bị đi qua lớp A4, cô bé do dự một hồi rồi lập tức bước thật nhanh.
Trong lớp học là sự ồn ào thường gặp của giờ nghỉ trưa. Khương Đình hướng mắt về đằng trước, bước chân không dừng lại. Nhưng mà, cô gái xuất hiện trước cửa lớp vẫn thu hút ánh nhìn của Khương Đình. Liếc một cái, Khương Đình vội thu ánh mắt lại.
Mã Na ôm bả vai, tựa vào khung cửa, nhìn cô bé mà cười như không cười. Khương Đình cụp mắt xuống, đi qua mặt cô ta. Mùi nước hoa nồng nặc xộc thẳng vào mũi Khương Đình, khiến cho lông tơ trên cổ cô bé dựng đứng cả lên.
Đi được vài mét, Khương Đình dường như mới lấy lại nhịp thở. Ngay sau đó, cô bé liền nghe thấy giọng nói của Mã Na truyền từ đằng sau tới.
“Bớt lo chuyện bao đồng. Chuyện hai chúng ta còn chưa xong đâu.”
Khương Đình nắm bình nước trong tay, bước dạng chân, nhưng phần thân trên vẫn không nhúc nhích, từ từ tiến về cửa lớp A1, rẽ trái rồi chui vào lớp.
Quay trở lại chỗ ngồi của mình, Khương Đình mới nhận ra phần vai gáy vô cùng đau nhức, ngón tay nắm chặt vào bình nước bỗng tê cứng, đầu ngón tay ửng trắng, như muốn co quắp lại. Cô bé thở phào một cái, vung vẩy ngón tay, tâm trạng lại trở nên vô cùng lo lắng.
Cậu bạn trực nhật đã đẩy tủ cơm(14) về lớp. Mọi người chen nhau lên, ai nấy tìm lấy cho mình một hộp cơm đã được hâm nóng nghi ngút. Khương Đình không muốn chen chúc, đợi khi mọi người đã về hết mới bước đến trước bục giảng, lấy từ trong ra chiếc hộp cơm bằng thép không gỉ của mình.
Vừa nhổm người dậy, dưới tầm nhìn của cô bé liền xuất hiện một đôi chân. Ngước lên trên, Khương Đình trông thấy bố mình đang đứng trước cửa lớp, vẫy tay về phía cô bé cười tít mắt.
“Sao bố lại tới đây?” Khương Đình cầm lấy hộp cơm vẫn còn hơi bỏng tay, nhất thời không biết nên làm gì.
“Đến xem con thế nào.” Tôn Vĩ Minh xoa đầu cô bé, “Đi, bố dẫn con đi ăn tiệm.”
“Mẹ chuẩn bị cơm cho con đem theo rồi.”
“Cái này thì có gì ngon.” Tôn Vĩ Minh cầm lấy hộp cơm, lại đặt nó vào trong tủ cơm, “Bố chiêu đãi con món vịt quay.”
Khương Đình đành chịu, chỉ biết đi theo bố ra khỏi tòa giảng đường.
Ra đến thao trường, Tôn Vĩ Minh không ngừng nhìn ngó xung quanh. Khương Đình biết ông ấy đang lo lắng điều gì, không khỏi cười thầm trong bụng.
“Buổi trưa mẹ sẽ không đến đâu.”
“Hử? Bố mà phải sợ mẹ con à?” Tôn Vĩ Minh cười gượng, “Trường con cũng tốt phết nhỉ.”
Ra khỏi cổng trường, Tôn Vĩ Minh dẫn Khương Đình ra xe, giúp cô bé mở cửa xe, đợi khi cô bé đã ngồi ngay ngắn trên xe mới chạy vòng qua đầu xe, chui vào trong ghế lái.
Sự sủng ái ập đến bất chợt khiến cho Khương Đình cảm thấy sợ hãi, nỗi nghi hoặc trong lòng càng dâng cao. Cho đến khi ngồi vào bàn ăn, được nhét gỏi cuốn bên trong cuộn thịt vịt, nước sốt mặn ngọt và dưa chuột vào tay, trán cô bé vẫn vã mồ hôi.
“Mau ăn đi.” Tôn Vĩ Minh lại chan một bát canh vịt cho cô bé, “Chiều mấy giờ vào học?”
“1 rưỡi.”
“Tranh thủ ăn đi.” Tôn Vĩ Minh nhìn vào đồng hồ đeo tay, rồi lại hối thúc, “Đừng đơ ra đó nữa.”
Khương Đình cắn một miếng nhỏ, ánh mắt không ngừng đảo trên người Tôn Vĩ Minh.
“Ăn nhiều vào.” Tôn Vĩ Minh lại cuốn hai chiếc cuộn để đưa cho cô bé, “Tiệm này bố đến mấy lần rồi, thịt vịt ở đây không tồi, hay là gọi thêm món vịt xào ớt nhé?”
“Dạ thôi, con ăn không hết đâu.” Khương Đình nghĩ một hồi, “Bố, hình như bố có chuyện gì đúng không?”
“Con ngốc này, bố mời con gái yêu của mình đi ăn cơm, cũng cần phải có lý do sao?” Tôn Vĩ Minh trợn mắt, “Có phải mẹ con ở nhà hay nói xấu bố đúng không?”
Khương Đình cúi đầu húp canh: “Làm gì có ạ.”
“Bố mẹ tuy không sống cùng nhau nữa, nhưng đều yêu thương con như nhau, hiểu không?”
“Vâng.” Khương Đình không ngẩng đầu, cầm lấy miếng gỏi cuốn, “Con biết.”
“Công việc của bố có lúc bận, không đến thăm con thường xuyên được. Nhưng mà, bố chưa bao giờ quên con.”
Khương Đình không nói gì, chỉ nhanh nhanh chóng chóng để ăn.
Tôn Vĩ Minh dường như không định ăn, liên tục cuốn gỏi, gắp rau, chan canh cho Khương Đình. Sau đó, anh ta châm điếu thuốc, trầm tư ngắm nhìn cô con gái.
Dưới cái nhìn chăm chú như vậy, Khương Đình không có cách nào để tiếp tục giữ sự im lặng được nữa. Cô bé ngẩng đầu lên nhìn Tôn Vĩ Minh: “Bố, bố cũng ăn đi chứ.”
Tôn Vĩ Minh cười, ánh mắt không ngừng đảo trên dung mạo cô bé: “Thực ra, con vẫn có nhiều nét giống bố hơn.”
“Vâng, từ dưới miệng trở xuống thì giống mẹ.”
Tôn Vĩ Minh gảy tàn thuốc, rít một hơi thật sâu: “Đình Đình, bố sắp phải tới Bắc Kinh làm việc rồi.”
“Dạ?” Khương Đình có chút bất ngờ, “Đi bao lâu ạ?”
“Bố được điều đến nhà máy mẹ.” Tôn Vĩ Minh nhếch miệng, “Sau này sẽ sống luôn ở Bắc Kinh.”
Khương Đình im lặng một hồi: “Sau này được nghỉ lễ con sẽ đến Bắc Kinh thăm bố.”
“Được.” Tôn Vĩ Minh cười, rồi lại nhìn Khương Đình, “Nhưng mà, con có từng nghĩ đến chuyện thay đổi môi trường sống bao giờ chưa?”
Khương Đình nhét miếng gỏi cuốn cuối cùng vào miệng, lấy khăn giấy lau sạch sẽ ngón tay.
“Đến Bắc Kinh á?”
“Đúng vậy.” Tôn Vĩ Minh trở nên hưng phấn, cuống quýt bảo, “Con nghĩ mà xem, thủ đô đấy. Chỗ chúng ta đây mà so với Bắc Kinh thì không khác gì một cái huyện nhỏ. Thiên An Môn, Cố cung, Di Hòa viên, Vạn Lý Trường Thành…… Bắc Kinh còn có tàu điện ngầm nữa, con biết không, nhanh hơn xe buýt nhiều……”
Khương Đình ngắt lời ông bố đang mặt mày hớn hở: “Mẹ con cũng đi chứ?”
“Chuyện này……” Khuôn mặt Tôn Vĩ Minh lập tức biến sắc, “Mẹ con sẽ không đi cùng bố đâu.”
“Vậy con không đi.”
“Đình Đình, con còn nhỏ, chuyện người lớn con không hiểu đâu.” Tôn Vĩ Minh cười đau khổ, “Mẹ con, chắc sẽ không tha thứ cho bố đâu.”
“Con muốn ở cùng mẹ, mẹ đi đâu thì con đi đấy.”
“Nhưng sớm muộn rồi con cũng phải rời xa mẹ mà.” Tôn Vĩ Minh sốt ruột, “Con nghĩ mà xem, môi trường ở Bắc Kinh tốt như vậy, nơi đó là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước. Quan trọng nhất là, nếu thi Đại học ở Bắc Kinh, điểm sàn sẽ thấp hơn ở chỗ chúng ta nhiều. Với thành tích hiện tại của con, thi vào Thanh Hoa, Bắc Đại sẽ không thành vấn đề.”
Khương Đình chớp mắt: “Làm gì đến mức thế ạ?”
“Chả nhẽ bố lại đi lừa chính con gái của mình sao?” Tôn Vĩ Minh xòe tay, “Nếu con cứ tiếp tục ở đây, đến khi lên lớp 12, áp lực học tập sẽ nặng hơn bây giờ gấp nhiều lần. Nhưng mà, nếu ở Bắc Kinh thì con có thể thoải mái mà đỗ vào trường Bắc Đại, Thanh Hoa — Thế thì có gì mà không tốt nào?”
Khương Đình cắn môi, cúi đầu, im lặng phút chốc.
“Con không muốn đi.”
“Tại sao?” Biểu cảm trên khuôn mặt Tôn Vĩ Minh vô cùng khó hiểu, “Điều đó đối với con hoàn toàn không có mặt xấu, chỉ toàn mặt tốt mà.”
“Con sẽ tự mình cố gắng, chưa biết chừng sẽ thi đỗ vào Bắc Đại.” Khương Đình lí nhí đáp, “Con không ham hố cái hộ khẩu Bắc Kinh.”
“Con thật là! Nếu bây giờ các bạn con mà có cơ hội đến Bắc Kinh dự thi, chắc sẽ nhảy cao ba thước vì sung sướng mất!”
“Con không thể bỏ mặc mẹ.”
“Thế con nhẫn tâm bỏ mặc bố sao?”
“Bố còn có em trai, cả người phụ nữ kia bên cạnh nữa.” Khương Đình ngẩng đầu, ánh mắt không chịu khuất phục, “Nếu con đi theo bố, mẹ sẽ sống một mình, như thế thật bất công.”
Tôn Vĩ Minh như chết lặng. Anh ta ngơ ngác nhìn Khương Đình, đột nhiên cơ thể thả lỏng.
“Trong thế giới của người lớn, công bằng ở chỗ nào?”
Khương Đình còn đang mải suy nghĩ xem câu nói ấy là dành cho mình hay bố chỉ đang độc thoại, thì Tôn Vĩ Minh liền xốc lại tinh thần, miễn cưỡng nặn ra một nụ cười.
“Được rồi, hôm nay tạm thời không bàn về chuyện này nữa.” Anh ta chỉ tay vào đĩa thịt vịt còn hơn một nửa, “Con ăn thêm đi.”
“Con no rồi.” Khương Đình đứng dậy, “Bố chở con về trường đi.”
****
Vương Hiến Giang và Thái Vĩ giữ nguyên cùng một tư thế: Hai tay chống lên bàn làm việc, ngả người về phía trước, nhìn xuống tấm bản đồ trên mặt bàn. Bên cạnh tấm bản đồ chi chít những vòng tròn đỏ to nhỏ là chiếc gạt tàn đầy mẩu thuốc lá, mấy bao thuốc bị bóp bẹt nằm vung vãi sang một bên.
Thái Vĩ nheo mắt, bỏ thuốc ra khỏi miệng, tiện tay nhấn đầu thuốc vào hộp cơm đã ăn một nửa.
“Lại từ đầu nhé. Cô y tá khoa nhi tên Dương Tân Thiến hôm đó không phải trực ban, khoảng 11 giờ sáng xuất phát từ nhà để đi dạo phố, đích đến là khu thương mại Xuân Thành, cũng có khả năng là khu bán buôn hàng hóa nhỏ lẻ ở bên cạnh. Cô ta đã lượn quanh đây tầm 5 tiếng đồng hồ. Khoảng 4 rưỡi chiều, cô ấy đã gọi điện về nhà, hỏi chồng muốn mua quần suông màu kaki hay màu đen, đồng thời có bảo là sắp về nhà.”
“Không sai.” Vương Hiến Giang túm lấy mái tóc bù xù, “Giả dụ từ 5 giờ đến 6 giờ chiều cô ta chuẩn bị về nhà……”
Thái Vĩ chớp mắt: “Không phải là 4 rưỡi sao?”
Vương Hiến Giang thở dài: “Phụ nữ khi đi mua sắm thì không có khái niệm về thời gian. Em chưa có người yêu nên không hiểu được đâu.”
Thái Vĩ cười hi hi: “Sư phụ nói tiếp đi.”
“Thời gian từ 5 giờ đến 6 giờ chiều, khả năng cao là cô ấy đã ngồi chuyến xe buýt số 6.” Vương Hiến Giang chỉ tay vào một điểm trên bản đồ, “Cách khu thương mại Xuân Thành tầm 150m.”
“Khoảng thời gian đó, bến xe buýt đang rất đông người mà.” Thái Vĩ nhíu mày, ngón tay di chuyển trên bản đồ, “11 bến, đi hết tầm 40 phút, xuống bến ở trường Trung học 73, sau đó đi bộ khoảng 400m…… Trên đoạn đường Liễu Điêu Hồ nếu không phải khu dân cư thì cũng là chợ đêm. Về cơ bản không có khả năng cho hung thủ ra tay.”
Vương Hiến Giang nghĩ một hồi: “Bước đầu xác định tại khu thương mại Xuân Thành đi.”
Thái Vĩ đáp lại một tiếng, dùng bút để đánh dấu lên tấm bản đồ. Sau đó, cậu ta vặn tay: “Chỉ còn lại một cái khó nhất thôi.”
Vương Hiến Giang lại châm điếu thuốc, đứng ngây ra một lúc, dường như đang tích lũy năng lượng.
“Đỗ Viên, vào tối hôm xảy ra vụ án đã ngồi lên tàu điện số 54, đến quán bar Phong Nguyên Đại để tham dự buổi tiệc cảm ơn sau hôn lễ của đồng nghiệp.” Vương Hiến Giang nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ, “Buổi tiệc kết thúc vào khoảng 9 giờ tối, Đỗ Viên tạm biệt đồng nghiệp ở trước cửa quán bar sau đó đi một mình. Khi ấy, tàu điện số 54 đã ngừng hoạt động.”
“Khoảng cách tầm 3.6km.” Thái Vĩ lắc đầu, “Tuyến đường mà cô ấy trở về nhà toàn những nơi không hề sầm uất.”
“Một người phụ nữ, vào lúc hơn 9 giờ tối, không thể đi tàu điện, vậy cô ta sẽ chọn cách nào để về nhà?”
“Bắt taxi.” Thái Vĩ buột miệng nói, “Không nhẽ lại đi bộ?”
“3.6km, không xa không gần.” Vương Hiến Giang như đang tự nói một mình, “Đồng nghiệp Đỗ Viên nhớ lại, cô ấy đã uống một ít rượu, nhưng không đến mức say.”
Thái Vĩ nghĩ ngợi: “Có khi nào là một tài xế taxi?”
“Không thể. Nếu vậy sẽ khó giải thích được vụ án của Tôn Tuệ — Cô ta đi xe đạp, hoàn toàn không nhất thiết phải tiếp xúc với một tài xế taxi.”
“Nếu như đi bộ, thì trên quãng đường 3.6km đó, bất cứ chỗ nào cũng có thể là địa điểm gây án.”
Vương Hiến Giang do dự một hồi: “Nếu đã không nghĩ ra thì cứ bỏ đấy — Lấy điểm trung gian đi.”
Thái Vĩ đáp lại một câu “Rõ”, đánh dấu trên bản đồ, mau chóng đi lấy com-pa.
Vương Hiến Giang lạnh lùng hỏi: “Em làm gì vậy?”
“Lấy hai điểm xa nhau nhất để vẽ hình tròn ạ.” Thái Vĩ có chút khó hiểu, “Không phải chúng ta cần tìm tâm đường tròn hay sao?”
“Em đừng vội.” Vương Hiến Giang lắc đầu, “Vẫn còn vấn đề về địa điểm vứt xác.”
Thái Vĩ vỗ vào đầu, đi thẳng đến góc tường, lấy ra một ống giấy dài khoảng nửa mét trong đống đồ đạc lẫn lộn.
Vương Hiến Giang lấy làm lạ: “Đây là cái gì?”
“Sư phụ vẫn còn nhớ thầy Trần chứ?” Thái Vĩ lôi từ trong ống ra một cuộn giấy can(15), “Em đã nhờ thầy ấy làm một tấm bản đồ mạng lưới đường ống nước mưa, có cùng tỉ lệ với tấm bản đồ này.”
Cậu ta đặt tấm bản đồ mạng lưới đường ống nước mưa được vẽ trên giấy can phủ lên trên tấm bản đồ, khu vực nội thành liền trở nên lập thể — Đường xá trên mặt đất và đường ống dưới mặt đất đều hiện ra cùng lúc.
Vương Hiến Giang cười: “Tên tiểu tử này khá quá nhờ, suy nghĩ cũng thấu đáo ra phết.”
“Cũng nhờ sự chỉ đạo anh minh của thầy.” Thái Vĩ chỉ tay vào tấm bản đồ đường ống nước mưa, “Thầy Trần cũng đã cho đánh dấu vị trí miệng cống.”
Vương Hiến Giang cúi người xuống, nhìn chằm chằm vào hai tấm bản đồ được xếp chồng lên nhau, do dự hồi lâu: “Trước hết, chúng ta cần làm rõ vài điểm.”
“Thầy nói đi.”
“Thứ nhất, địa điểm xâm hại và giết người là ở trong đường ống nước mưa hay ở một nơi nào đó bên ngoài?”
“Em nghĩ là ở bên ngoài.” Thái Vĩ chớp mắt, “Chúng ta có thể khẳng định hai trong số các nạn nhân đã tiếp xúc với hung thủ vào khoảng chập tối, người bình thường sẽ không thể nào ngoan ngoãn mà đi theo hắn xuống dưới cống nước mưa được.”
“Ừm.” Vương Hiến Giang gật đầu, “Thứ hai, tại sao hung thủ lại chọn đường ống nước mưa làm địa điểm vứt xác?”
“Đương nhiên là để che dấu hành vi phạm tội.” Thái Vĩ buột miệng đáp, “Nếu không nhờ trận mưa lớn đó, thì sẽ không ai phát hiện ra ba nạn nhân đã bị ném xuống đường cống ngầm……”
Cậu ta đột nhiên ngừng lại, ngơ ngác nhìn Vương Hiến Giang: “Sư phụ, ba thi thể này bị cuốn trôi ra từ cùng một đường ống nước, rất có thể đã bị ném xuống cùng một nơi.”
“Điều này chứng tỏ hắn phải rất thông thuộc với một trong số những miệng cống.” Vương Hiến Giang dùng ngón tay gõ lên bản đồ, “Nói cách khác, cái miệng cống này và quỹ đạo sinh hoạt hàng ngày của hắn có sự liên hệ với nhau — Đây cũng chính là câu trả lời cho vấn đề thứ hai.”
Ánh mắt Thái Vĩ sáng lên: “Hung thủ đã tiếp xúc với các nạn nhân ở những địa điểm khác nhau, dẫn tới một nơi nào đó, cưỡng bức xong rồi sát hại. Sau đấy đem thi thể dời đi, ném vào trong một miệng cống mà hắn thông thuộc.”
“Thời điểm vứt xác vào lúc nửa đêm, ít người qua lại. Hơn nữa, vị trí miệng cống đó phải tương đối hẻo lánh, không dễ bị người khác phát hiện.” Vương Hiến Giang xoa cằm, “Mấu chốt là, cái ‘nơi nào đó’ phải không được cách quá xa miệng cống.”
Anh ta ném chiếc com-pa cho Thái Vĩ: “Bây giờ em có thể vẽ đường tròn được rồi.”
Thái Vĩ bỏ tấm bản đồ mạng lưới đường ống nước mưa ra, nhìn vào tấm bản đồ thành phố: “Hai điểm xa nhau nhất là vị trí mất tích được dự đoán của Dương Tân Thiến và Tôn Tuệ — Nếu như chúng ta đặt vị trí mất tích được dự đoán của Đỗ Viên vào điểm trung gian.”
Vương Hiến Giang xua tay. Thái Vĩ đo đạc khoảng cách trên tấm bản đồ, đánh dấu tâm, vẽ đường tròn. Sau đó, cậu ta nối tâm đường tròn với vị trí được cho là Đỗ Viên đã mất tích, rồi lại vẽ thêm một đường tròn khác. Thế là, trên bản đồ xuất hiện hai đường tròn đồng tâm.
Vương Hiến Giang nhíu mày: “Lại cái gì nữa đây?”
“Thầy Kiều bảo, lấy nơi ở của tên tội phạm làm trung tâm, xung quanh sẽ xuất hiện một khu hoãn xung.” Thái Vĩ trông có vẻ rất tự tin, “Ở trong khu vực này, do quá gần với nơi ở, dễ đụng phải người quen, nên hắn sẽ không gây án tại đây.”
“Ừm, có lý.” Vương Hiến Giang như đang suy ngẫm gì đó, “Với những án mạng liên hoàn, thường thì những vụ đầu tiên sẽ gần với nơi ở của tên tội phạm.”
“Không sai.” Thái Vĩ chỉ vào bên trong đường tròn nhỏ kia, “Đây chính là ‘khu hoãn xung’ của hung thủ.”
Vương Hiến Giang lại chồng tấm bản đồ mạng lưới đường ống nước mưa lên trên tấm bản đồ thành phố, vị trí của những miệng cống nước mưa ở trong “khu hoãn xung” lần lượt hiện ra, xem chừng có vẻ không ít.
“Đi thôi, làm thêm cuốc nữa.” Vương Hiến Giang ra lệnh cho Thái Vĩ, “Xem xem miệng cống nào phù hợp với điều kiện vứt xác — Bắt đầu từ tâm ‘khu hoãn xung’ để điều tra.”
“Thầy xem, không phải đã có hướng điều tra rồi đấy sao?” Thái Vĩ trở nên hưng phấn, cuống quýt thu dọn tấm bản đồ, “Đúng là thầy giỏi dạy trò tài……”
“Em bớt khoe mẽ đi!”
Ngữ khí tuy nghiêm nghị, song khóe miệng Vương Hiến Giang vẫn hé một nụ cười.