MỘT ĐẠI DỊCH Ở TRUNG QUỐC.
Phần 1: Cha đẻ của khẩu trang N95.
Tháng trước, ngay cả những ngày tệ nhất cũng chỉ có một người chết. Chỉ một tháng sau thì đã có tới 100 người thiệt mạng mỗi ngày. Xác chết của những người quen, những gương mặt thân thuộc bắt đầu chất đống ngoài đường. Đêm Giáng sinh vắng tanh người bởi chẳng ai dám bước chân ra khỏi nhà cả. Tết Nguyên đán thì đang cận kề, tây bắc Trung Quốc cũng đã bị phong tỏa. Nhưng dường như thời gian và vận rủi đang chống lại mọi nỗ lực ngăn cản dịch bệnh.
Người đàn ông mà triều đình cử đến để giúp họ chống lại đại họa này lại là một kẻ hoàn toàn xa lạ. Một người Trung Quốc nhưng trưởng thành ở Tây phương, thậm chí chẳng thể nói sõi tiếng Trung. Tình cảnh giờ đây giống như câu chuyện về thanh gươm của Damocles vậy, thời gian để dân chúng tự bảo vệ mình trước lưỡi hái tử thần đang ngày càng ít đi.
Nếu không thể ngăn dịch bệnh tiếp tục lây lan trước khi cư dân ồ ạt lên tàu tại năm nhà ga lớn tại miền bắc Trung Quốc. Cả nhân loại hoàn toàn có thể phải đối mặt với một đại dịch chết người. Chừng nào chưa tìm được giải pháp hữu hiệu, những cột mốc thống kê mới sẽ liên tục được thiết lập bởi sinh mạng của hàng ngàn người.
Đó là năm 1910 và có một “gã giao hàng” vẫn vô tư đi lại khắp nơi trong những ngày đầy chết chóc. Ông chính là cha đẻ của chiếc khẩu trang N95.
SÁT NHÂN LẨN KHUẤT.
Đêm ngày 7/11/1910, tiếng thét chói tai của một người phục vụ đã phá tan không gian tĩnh lặng nơi miền đông bắc. Nó đến từ nhà trọ Phu Gia Điền tại Cáp Nhĩ Tân, thành phố do người Nga xây dựng. Lúc này là cuối đông, cái lạnh nơi đây đã chạm tới ngưỡng tàn khốc. Dân toàn thành phố gần như đều đã nghỉ đông trong ngôi nhà ấm cúng của mình. Ngoài đường giờ chẳng có bóng người nào. Ngay lúc này, dưới ánh lồng đèn trên tay, người giúp việc tại Phu Gia Điền đã chứng kiến một cảnh tượng mà tới người cứng rắn nhất cũng phải giật mình hoảng hồn: hai xác chết nằm gục trên một trong những chiếc bàn của nhà trọ.
Nhà trọ này vài năm trước là một xưởng sản xuất. Vụ việc quá đỗi nghiêm trọng khiến chủ nhà trọ báo ngay với chính quyền địa phương.
Hồi chuông báo động lập tức được gióng lên, người ta nhanh chóng xác định được nghề nghiệp của hai nạn nhân, họ đều là thợ săn Marmot. Nghề lấy da Marmot để đổi lấy các loại da động vật khác không phải là một nghề quá xa lạ với những người Trung Quốc hay Nga quanh khu vực Cáp Nhĩ Tân. Những thợ săn kiêm thương nhân này là khách hàng quen thuộc của các nhà trọ du lịch tại đây.
Thực tế, thì hai nạn nhân tới nhà trọ không phải để bàn công chuyện mà để tổ chức ăn mừng một năm làm ăn phát đạt. Kì lạ là hai người này chết trong tình trạng đang rất sung sức. Họ đột tử ngay giữa buổi liên hoan của mình khi làn da vẫn còn rất hồng hào. Dân địa phương nhanh chóng báo ngay cho nhà chức trách Vu Tứ Hưng.
Vu Tứ Hưng là một quan lại lão thành. Và như cái cách ông xử lý nhiều vụ việc tương tự, tới tận ngày thứ chín ông mới cùng các điều tra viên và nhân viên pháp y tới hiện trường vụ án. Quá trình điều tra thiếu chuyên nghiệp khiến họ không thể xác định được nguyên nhân cái chết. Nạn nhân đều là đàn ông vùng Đông Bắc, những kẻ nổi tiếng cục súc, ồn áo. Khó có thể tưởng tượng họ đã đầu độc lẫn nhau do chia chác không thỏa đáng, hay bị kẻ khác ám sát vì một mối thù cá nhân nào đó.
Những gã thợ săn này dành cả đời sống trong cách khu khách điếm hay vài căn lều tạm bợ dựng tạm. Người dân địa phương cũng không mấy thiện cảm với các thợ săn này. Có khi nào chính lối sống hoang dã, sốc nổi lại là nguyên nhân cho cái chết của họ?
Bi kịch vẫn chưa kết thúc. Khi hồ sơ vụ án vẫn chưa kịp hoàn thành, thêm 4 khách trong nhà trọ mất mạng. Đến cả chủ quán trọ và nhiều nhân viên khác cũng có những biểu hiện sức khỏe bất thường, họ đều đột nhiên dính phải những con sốt, ho dữ dội đến khi ra máu và màu da bắt đầu thay đổi, cuối cùng họ tử vong vài ngày sau đó. Lúc này, không còn nghi ngờ về sự hiện diện của một dịch cúm chết người trên địa bàn Cáp Nhĩ Tân nữa. Người dân và cả chính quyền đều lâm vào trạng thái hoang mang tột độ.
LAN RỘNG.
Ngay trong tuần, Vu Tứ Hưng gửi công văn cầu cứu tới chính quyền trung ương tại Bắc Kinh. Chỉ trong vòng một tuần, thị trấn Phu Gia Đán đã tràn ngập người nghiệm bệnh, tâm lý hoảng loạn của người dân cũng bắt đầu lên cao khi họ ý thức được rằng mình đang ở giữa ổ dịch. Thế là thành phố của người Nga bên cạnh Cáp Nhĩ Tân bỗng chật cứng những người tị nạn với đủ quốc tịch khác nhau.
Khu vực Mãn Châu và bán đảo Liêu Đông được Nhật Bản quan tâm ngay từ những năm 1890. Tới năm 1910, có rất nhiều điệp viên Nhật hoạt động ở hai khu vực này dưới lớp ngụy trang của các doanh nhân hoặc khách du lịch.
Người Nhật và người Nga ngay lập tức bị nghi ngờ có liên quan tới nguồn gốc dịch bệnh. Vùng đông bắc Trung Quốc này từng là quê cha đất tổ của những nhà cai trị Mãn Thanh nhưng vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nơi đây đã trở thành chiến trường cân não giữa các đế quốc.
Đối với người Trung Quốc, Mãn Châu là vùng đất nhục nhã. Nhật chiếm nơi này sau khi đè bẹp quân đội Nga trong cuộc chiến năm 1905. Đến năm 1910, căng thẳng đa dân tộc đã lan ra khắp khu vực. Mãn Châu có thể coi là miếng bánh khó nuốt trôi của cả Nga và Nhật. Nhiều hiệp ước đã xoa dịu bớt tham vọng của hai bên nhưng tình trạng căng thẳng ngầm vẫn chưa có dấu hiệu hạ nhiệt.
Nhật Bản không được công nhận quyền sở hữu tuyệt đối với Mãn Châu. Còn Nga, dù vừa thảm bại vẫn cố bám trụ bằng vài hiệp ước thuận lợi, cho phép họ tiếp tục khai thác nơi đây. Trong khi đó, người Trung Quốc bản địa thì căm thù tới tận xương tủy cả hai đế quốc tham lam.
Dân địa phương xem người nước ngoài đều là những kẻ xâm lược và họ tin chắc rằng, dịch bệnh lần này lại là một chiêu trò vô nhân đạo khác của bè lũ đế quốc. Điều này thực sự xảy ra như trường hợp “Đơn vị 731” của phát – xít Nhật trong chiến tranh Trung Nhật sau này. Nhưng rồi cuối cùng những nghi ngờ dành cho người ngoại quốc ở Cáp Nhĩ Tân cũng dần bị xua tan đi, khi chính người Nga và người Nhật cũng lần lượt ngã quỵ vì dịch cúm.
Cáp Nhĩ Tân nhanh chóng trở thành đất chết. Vào thời điểm đó, nơi này bị các tuyến đường sắt xẻ thành nhiều phần do người nước ngoài và Trung Quốc quản lý. Tâm dịch lớn nhất là thị trấn Phu Gia Đán nằm giữa trung tâm thành phố, nơi đây có số dân đông đảo đi kèm với điều kiện vệ sinh kém. Nhiều bác sĩ sớm trở thành bệnh nhân ngay khi tới thị trấn này.
Vu Tứ Hưng trong vai trò người lãnh đạo, đã làm hết những gì ông có thể để xử lý dịch bệnh. Ông hoàn toàn không có quyền hạn điều hành trực tiếp toàn thị trấn, bởi thực tế thì thành phố này do người Nga xây dựng và vẫn đang hoạt động như một thuộc địa của Nga. Việc không có thẩm quyền quyết định trong tay buộc Vu phải tìm kiếm sự hỗ trợ từ Bắc Kinh.
BÁC SĨ NAM DƯƠNG.
Vào buổi chiều lạnh lẽo ngày 24/12/1910, Vu nhận được tin vị “cứu nhân” của ông sẽ cập bến Cáp Nhĩ Tân bằng tàu hỏa. Nhưng khi đón ông khách bí ẩn tại nhà ga, Vu Tứ Hưng đã có đôi chút thất vọng
Đó là một cậu thanh niên với gương mặt nhỏ, da hơi ngăm đen, cao khoảng 1m6, vẫn là lùn dù theo chuẩn người Hoa. Cậu ta đeo một cặp kính, xách một túi đồ y sĩ, theo sau là một anh bạn đồng hành thậm chí còn trẻ hơn cậu, đâu đó chỉ khoảng 20 tuổi thôi. Nhiệm vụ của người đồng hành này là làm phiên dịch tiếng Trung cho vị bác sĩ. Đúng vậy, một bác sĩ người Trung Quốc không thể nói thạo tiếng Trung.
Gã có phải người Trung Quốc không vậy? Anh ta thậm chí để tóc ngắn không có đuôi sam. Triều đình Thanh cử gã ngoại lai tới giúp chúng ta sao?
ĐỨA CON XA XỨ.
Chàng bác sĩ này hóa ra là một Hoa kiều, trở về từ Penang, vùng thuộc địa của Anh. Những người như anh được gọi là “người Nam Dương” vì sinh sống ở vùng biển phía nam Trung Quốc.
Trước các cuộc chinh phạt của người Nữ Chân cuối thời nhà Minh. Nhiều dân tị nạn bắt đầu tổ chức định cư và tạo nên những khu phố Tàu sầm uất tại Malaysia, Việt Nam, Philipines, Brunei, Malysia, Đông Timor, Indonesia và Singapore. Vào thời điểm chàng bác sĩ ra đời, Penang là một phần của Đế quốc Anh. Mặc dù là một sản phẩm giáo dục của người Anh, bị nghi hoặc bởi chính những người đồng bào ở Trung Quốc, nhân vật trong câu chuyện của chúng ta cuối cùng vẫn chọn con đường cống hiến tài năng cho vùng đất tổ tiên.
VỊ BÁC SĨ TÀI NĂNG.
Anh ta tên là Ngũ Liên Đức. Năm 17 tuổi, Liên Đức đứng trước tương lai trở thành bác sĩ Trung Quốc đầu tiên tốt nghiệp ngành y khoa của đại học Cambridge khi anh nhận được học bổng Nữ hoàng Anh. Trong trường đại học, anh tiếp tục giành tiếp mọi suất học bổng nhờ thành tích học tập ấn tượng của mình. Sau khi tốt nghiệp, Ngũ Liên Đức chuyển tới nghiên cứu vi khuẩn học với Sir Ronald Ross (người đoạt giải Nobel sinh lý học năm 1902), vài năm sau thì nghiên cứu sốt rét và uốn ván tại viện Pasteur, Paris. Chàng trai trẻ này sớm được làm việc cùng những người giỏi nhất trong ngành y học.
Năm 1903, Liên Đức gia nhập Viện nghiên cứu y học Kualumpur trong vai trò nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, anh không được giữ chức chuyên gia bởi hệ thống phân cấp của Anh Quốc chỉ cho phép công dân Anh chính gốc được giữ chức vụ cao.
Sau khi quay về Penang lập gia đình, Ngũ Liên Đức chuyển qua làm bác sĩ tư. Trước nạn thuốc phiện đang tràn ngập trong cộng đồng lao động gốc Hoa tại quê nhà, anh cùng người cộng sự là bác sĩ Lâm Văn Khánh ra sức triệt phá các đường dây buôn bán thuốc phiện.
QUAY TRỞ VỀ.
Vào tháng 3/1906, anh chủ trì một hội nghị phòng chống thuốc phiện rất lớn tại Ipoh. Không may cho Ngũ Liên Đức, hoạt động chống thuốc phiệt kịch liệt của anh vô tình đụng chạm tới khoản doanh thu thuộc địa lớn nhất của người Anh tại Malaysia. Thế là đầu năm 1907, Ngũ bị bắt vì tàng trữ 28g thuốc phiện trong phòng khám tư của mình. Dù giải thích trước tòa về việc chỉ sử dụng thuốc được mua từ một bác sĩ Anh để gây mê cho bệnh nhân, anh vẫn bị buộc tội và bị phạt một khoản tiền lớn. Trong tận cùng của nỗi thất vọng và nhục nhã, Ngũ Liên Đức nhận được lời mời làm việc tại Trung Quốc.
Vài tháng trước, một nhóm sinh viên được Thanh triều gửi đi du học đã dừng chân tại Penang sau hành trình dài quanh Borneo. Liên Đức đã tiếp xúc với một trong số những sinh viên này, người đó là Alfred Sze, sinh viên trường Đại học Cornell và sau này trở thành Ủy viên ngoại giao Thanh triều. Chính nhờ kết bạn với Sze, anh mới được mời làm giảng viên cho các bác sĩ quân y trong quân đội nhà Thanh.
Vào tháng 5 năm 1908, Ngũ Liên Đức cùng vợ mình lần đầu tiên đến Thượng Hải tiếp đó là Thiên Tân. Tại đây anh gặp cựu chánh văn phòng quân đội Mãn Châu giờ đang làm phó giám đốc Học viện quân đội Hoàng gia Thiên Tân, ông này rất ấn tượng với vị bác sĩ trẻ. Mặc dù cùng là người Trung Quốc nhưng tại học viện, Liên Đức được đối đãi như một giảng viên nước ngoài. Anh giao tiếp với các sinh viên của mình bằng tiếng Anh thông qua người phiên dịch. Tới đây, chúng ta cùng quay trở về với sân ga nơi Vu Tứ Hưng và Ngũ Liên Đức gặp nhau năm 1910.
Sau khi vài bác sĩ mất mạng trong lúc làm nhiệm vụ tại Cáp Nhĩ Tân, vào ngày 19/12/1910, Ủy viên Alfred Sze lập tức liên lạc cho người bạn có kiến thức uyên thâm về dịch tễ của mình. Sau chuyến tàu kéo dài 3 ngày, chàng trai trẻ 31 tuổi cuối cùng cũng đặt chân lên nền băng lạnh lẽo của miền bắc Trung Quốc. Có vẽ như chuyến “du lịch” của anh tại Cáp Nhĩ Tân đến vào thời điểm không thể tệ hơn khi thành phố này đang chết dần, chết mòn bởi một một trận đại dịch.
Nguồn: Dragon's Amory.