Marie Curie – Bông hồng gai kiên cường của thế giới khô khan !!

Hôm qua tình cờ xem được post về phần mộ của Marie Curie trong group nên hôm nay muốn lên luôn 1 bài về bà. Một phần vì ngưỡng mộ và một phần cũng mong mọi người có cái nhìn vượt qua rào cản về định kiến rằng “những người phụ nữ trong khoa học luôn được nhớ đến nhiều hơn về giới tính hơn là những đóng góp cho lĩnh vực của họ.”

“You cannot hope to build a better world without improving the individuals. To that end, each of us must work for our own improvement.” – Marie Curie – “Chẳng có hy vọng nào để tạo nên một thế giới tốt đẹp khi mà những cá nhân không chịu thay đổi. Để đạt được điều đó, chúng ta phải không ngừng cải thiện chính bản thân mình.”

Nhà vật lý và hóa học người Pháp gốc Ba Lan Marie Curie được cho là nhà khoa học nữ nổi tiếng nhất mọi thời đại. Với một trí tuệ đặc biệt và đáng ngưỡng mộ, Marie đã gây dựng những thành tựu của bà trong các lĩnh vực hầu như chỉ do nam giới thống trị trong suốt cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Một người phụ nữ tham gia vào lĩnh vực vật lý, hóa học là một kỳ tích vào thời điểm đó và cũng là người đóng vai trò tiên phong cho tất cả các nhà khoa học nữ sau này. Những thành tích của bà đã thoát khỏi cái nhìn dành cho những phụ nữ phá vỡ rào cản – rằng họ được nhớ đến nhiều hơn về giới tính của họ hơn là những đóng góp cho lĩnh vực của họ.

Tên tuổi của Marie Curie phần lớn đã gắn liền với việc nghiên cứu bức xạ. Chính vì nghiên cứu này đã ảnh hưởng trực tiếp tới căn bệnh của bà, chứng thiếu máu bất sản, khiến bà ra đi sớm ở tuổi 66. Lúc đó Marie Curie đã xử lý các đồng vị phóng xạ mà không có các quy trình an toàn hiện đại, thử nghiệm chính những khám phá của bà đã phát triển. Tuy nhiên, những chất phóng xạ ngấm vào người Marie đã lấy đi chính sinh mạng của bà nhưng công trình nghiên cứu đó của bà đã cứu sống vô số người. Xạ trị ngày nay được sử dụng như một phương pháp điều trị cho một số bệnh ung thư, nó đã và vẫn luôn là liều thuốc tốt nhất hiện nay để chữa trị căn bệnh quái ác này; Marie Curie là người đầu tiên thử sử dụng phương pháp y tế này dựa trên nghiên cứu của bà về các đồng vị phóng xạ trong chính phòng thí nghiệm của mình.

Bà người phụ nữ đầu tiên đoạt giải Nobel – và là người phụ nữ duy nhất từng giành được hai giải trong các lĩnh vực khoa học riêng biệt (cả thế giới chỉ có 2 người có thể làm được, đó là bà, và người còn lại là Linus Pauling) điều này làm Marie Curie trở thành một trong những nhà khoa học nổi tiếng và nhận được nhiều sự kính trọng nhất ở mọi nhà khoa học và mọi người đến mãi sau này.

Cuộc đời của một tâm hồn phi thường

Marie Curie sinh năm 1867 tại Warsaw, Ba Lan với tên gọi Maria Salomea Skłodowska. Cha của bà là một giáo viên toán và vật lý, trong khi mẹ cô điều hành một trường nữ sinh. Mặc dù được sinh ra trong một gia đình có đầy đủ điều kiện cho một nền giáo dục xuất sắc nhưng Marie Curie vẫn phải đối mặt với một số trở ngại lớn. Đầu tiên, tất nhiên, là giới tính của bà. Marie Curie chỉ được học trung học cho nữ và phụ nữ không được phép theo học tại các trường đại học địa phương. Một phần nữa vì lúc này Ba Lan đang là thuộc địa của Nga. Để theo đuổi giáo dục đại học, Marie Curie theo học tại một cơ sở đào tạo ngầm được gọi là Uniwersytet Latający. Ban đầu nơi đây được thiết kế cho phụ nữ tham dự, các lớp học cũng là một cách để giữ cho nền văn hóa và học thuật Ba Lan tồn tại dưới sự cai trị của Nga. Bất chấp sự khéo léo của mô hình trường đại học ngầm và những sự đầy đủ về mặt kiến thức ở đây, Marie Curie và chị gái Bronisława vẫn mong muốn được học ở Paris. Năm 1891, bà rời quê hương để cùng chị gái đến Paris thực hiện bước tiếp theo trong cuộc đời mình.

Sau khi nhập quốc tịch Pháp, Marie Skłodowska – Curie đã sử dụng cả hai họ. Bà không bao giờ quên đi bản sắc của dân tộc Ba Lan. Marie đã dạy cho con gái mình tiếng Ba Lan và đưa chúng đi thăm quê hương mình.

Tại Paris lãng mạn:

Marie Curie đăng ký vào Đại học Paris, nơi bà tập trung vào vật lý, hóa học và toán học. Đến năm 1894, bà đã đạt được hai tấm bằng đại học. Khi Marie Curie đang nghiên cứu về từ tính thì gặp một nhà khoa học khác tên là Pierre Curie, người giảng dạy tại Học viện Giáo dục Đại học Vật lý Công nghiệp và Hóa học Paris. Ông là một nhà khoa học thiên tài có cùng chí hướng và đam mê giống Marie Curie, sau đó Marie Curie cùng tham phòng thí nghiệm của Pierre, và ông đã nhanh chóng ngã mũ trước người phụ nữ trẻ tài giỏi. Marie Curie rất vui khi được gặp Pierre. Tuy nhiên, thời ấy mọi người hay có quan niệm rằng nữ giới không thể trở thành nhà khoa học. Sau một thời gian, Pierre đã nhận ra, ai cũng có thể trở thành nhà khoa học và đã ngỏ lời tỏ tình thật lãng mạn đến với Marie Curie. Không còn ưu tiên cho sự nghiệp của mình vì giờ ông đã tìm được nửa kia của đời mình, Pierre đề nghị trở lại Ba Lan với bà nếu đó là điều cần thiết để thuyết phục bà kết hôn với ông và cùng nhau sống đến già trong mái ấm gia đình. Tuy nhiên, cơ hội nghề nghiệp của Marie bị hạn chế ở Ba Lan nên bà đã lựa chọn ở lại Pháp. Họ đã kết hôn vào năm 1895.

Năm 1897, Marie Curie sinh một cô con gái, Irène. Mặc dù là cha mẹ lần đầu nhưng Marie Curie vẫn tích cực nghiên cứu các nguyên tố phát ra các tia bí ẩn. Năm 1906, sau khi sinh đứa con thứ hai, Pierre không may thiệt mạng trong một vụ tai nạn giao thông kinh hoàng ở Paris (ông bị xe ngựa đè ngang người). Nhưng trước khi ông ra đi, ông đã yêu cầu Đại học Paris hứa với ông rằng người vợ của mình, Marie, sẽ được thay ông giảng dạy tại nơi đây nếu có gì xảy ra với ông. Với kết cục bi thương, dường như tình yêu của ông với người bạn tri kỷ của mình là vô tận, ông đã luôn mong muốn thế giới nhìn nhận người vợ mình chính là một nhà khoa học thực thụ. Với nguyện ước của người chồng quá cố, Marie Curie đã trở thành nữ giáo sư đầu tiên trong lịch sử gần 800 năm của trường đại học nói chung. Bà đã trở nên nổi tiếng trong vòng một thập kỷ, với một phòng thí nghiệm dành riêng cho việc nghiên cứu radium như một nỗ lực chung vào năm 1914 giữa Đại học Paris và Viện Pasteur.

Con đường chông gai và tràn đầy nhiệt huyết:

Vào thời của bà, nhà vật lý người Pháp Henri Becquerel đã phát hiện ra những tia khó hiểu phát ra từ uranium, nhà khoa học người Đức Wilhelm Roentgen cũng lần đầu tiên ghi nhận sự tồn tại của tia X. Cả hai hiện tượng đều trở thành câu hỏi trọng tâm trong các đề tài nghiên cứu của Marie Curie. Với tình yêu dành cho vợ mình, Pierre luôn bên cạnh và tham gia cùng bà trong các nghiên cứu. Và thế là cùng nhau vào năm 1898, họ đã công bố khám phá của mình về các nguyên tố polonium (được đặt tên cho Ba Lan) và radium (nguyên tố đã giết chết chính bà)

Năm 1903, Marie Curie đệ trình luận án tiến sĩ về chủ đề phóng xạ, mang tên Nghiên cứu về các chất phóng xạ. Bà đã trình bày cơ sở của hiện tượng phóng xạ và mối liên hệ của nó với cấu trúc của nguyên tử. Mặc dù có kiến thức chuyên môn về chủ đề này nhưng hội nghị đã yêu cầu chồng bà làm diễn giả trong khi bà không được mời nói chuyện với khán giả gần như hoàn toàn là nam giới. Lại một lần nữa, định kiến về giới tính tác động đến cuộc đời của bà, Marie lùi về phía bóng tối để chứng kiến chồng mình và những khám phá của mình tỏa sáng.

Không chịu khuất phục bởi định kiến, cũng vào năm 1903, Marie Curie bảo vệ luận án của mình, công trình của bà đã thu hút sự chú ý của Ủy ban Giải thưởng Nobel. Bà được nhận giải Nobel vật lý cùng với chồng Pierre Curie và Henri Becquerel cho đề tài “Các nghiên cứu chung về các hiện tượng bức xạ do Giáo sư Henri Becquerel phát hiện” . NHƯNG MỘT LẦN NỮA, Marie Curie lại bị gạt sang một bên, bà gần như không nhận được giải thưởng mặc dù công việc của bà được cho là những khám phá quan trọng nhất trong suốt đề tài và thậm chí Henri Beccquerel cũng không có tên mà người duy nhất được nhận giải lúc đó là chồng bà, Pierre. Khi nghe tin vợ và đối tác nghiên cứu của mình không có tên trong danh sách nhận giải thưởng, Pierre đã khiếu nại với ủy ban và khẳng định rằng Marie Curie mới là người có công lớn nhất, sự góp mặt của bà vào lĩnh vực này không chỉ đúng, mà còn là một bước tiến dài đối với các nhà khoa học nữ. Và cuối cùng bà cũng đã được ghi nhận.

8 năm sau đó (1903), 13 năm sau lần đầu tuyên bố khám phá ra hai nguyên tố hóa học radium và polonium, năm 1911, bà vinh dự nhận được giải Nobel thứ 2 của mình về lĩnh vực hóa học và Marie Curie đã cố ý không lấy bằng sáng chế tiến trình tách radium, mà để các nhà khoa học khác nghiên cứu và tự do sử dụng nó, bà đã góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực .

Cũng vào năm 1911, Marie Curie tham dự Hội nghị Solvay đầu tiên, sự tập hợp ưu tú của những bộ óc giỏi nhất trên thế giới bao gồm Albert Einstein, Max Planck và Henri Poincaré. Chắc hẳn bạn không quên hoặc đã nhìn đâu đó thấy một bức ảnh chụp những bộ óc vĩ đại nhất trong lịch sử cùng một khung hình và chỉ có một người phụ nữ duy nhất trong đó, bông hồng gai trong thế giới khô khan đó chính là Marie Curie. Nhưng một điều đặc biệt hơn tất cả có lẽ bạn chưa biết, toàn bộ chủ đề của hội nghị năm đầu tiên được xây dựng dựa trên công trình nghiên cứu của Marie Curie cùng năm đó. Những bộ óc vĩ đại đó đã liên tục thảo luận về “Bức xạ và lượng tử” từ góc độ vật lý không ngừng nghỉ.

Nhưng đâu phải sống trong thế giới khô khan là con người ta cũng sẽ khô khan theo

Bất chấp những sự công nhận về đóng góp của Marie Curie trong 2 lĩnh vực hóa học và vật lí, người đời lại lần nữa bài ngoại và định kiến với bà khi bà vướng phải một cuộc tình tay 3. Nữ học giả với trái tim vụn vỡ khi người chồng thân thương ra đi bởi tai nạn đã tìm đến nhà vật lý Paul Langevin, một người đã có vợ. Bà đã mong Paul ly dị vợ và đến với mình sau nhiều lần gặp nhau nhưng tất cả những gì Marie Curie nhận được là sự từ chối. Tuy lúc này đã là một nhà bác học nổi tiếng ở Pháp, nhưng vụ bê bối này lại khiến người Pháp có cái nhìn xấu về bà, báo chí đưa tin và phân biệt nguồn gốc nhập cư và giới tính của bà. Qua thời gian mọi người dần quên vụ này, mặc dù Marie Curie và Paul Langevin không bao giờ quay lại với nhau nhưng sau này cháu trai của Paul Langevin là Michel đã kết hôn với cháu gái của Marie Curie là Hélène Langevin-Joliot :>

Dành suốt phần đời còn lại vùi mình trong nghiên cứu và cứu người

Tại Viện Radium của mình, Marie Curie đã nghiên cứu các ứng dụng y tế trong công trình của mình. Trước khi nhận bằng tiến sĩ, Curie và chồng đã công bố tác động của radium đối với tế bào ung thư. Khi WW1 bắt đầu, Marie Curie đã đổ tiền thưởng cho những đóng góp khoa học của mình vào trái phiếu chiến tranh và phát triển thiết bị X quang. Cùng với con gái, bà đã đào tạo và chỉ đạo các y tá Hội chữ thập đỏ trên chiến trường và bà đã điều trị, cứu sống vô số binh lính.

Năm 1934, Marie Curie qua đời vì mắc căn bệnh thiếu máu bất sản do tiếp xúc với bức xạ trong quá trình nghiên cứu khoa học và phóng xạ của bà tại các bệnh viện dã chiến trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Kể từ khi bà qua đời, Marie Curie đã trở thành tên gọi của các bệnh viện, viện bảo tàng và trường đại học dành để tôn vinh bà cũng như những thành tựu rực rỡ của bà. Một phần tử trên bảng tuần hoàn được gọi là Curium để vinh danh Marie Curie và Pierre. Marie Curie bà Pierre được chôn cất tại Điện Panthéon có từ thế kỷ 18 ở Paris bên trong những chiếc mộ lót chì để ngăn phóng xạ.

Marie Curie đã cống hiến cuộc đời mình cho khoa học, và trong một cuộc đời có lẽ là không dài, bà đã tìm ra cơ sở của một phương pháp điều trị ung thư mà ngày nay vẫn là loại thuốc tốt nhất hiện có. Là niềm tự hào của cả Ba Lan và Pháp, Marie Curie là người đặt nền móng cho nhiều thế hệ phụ nữ và các nhà khoa học trẻ.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *