LƯU CẦU – NHỮNG THÁNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA MỘT VƯƠNG QUỐC.

Ngoài khơi phía Tây Nam Nhật Bản, nằm giữa hai quốc đảo Nhật và Đài, Vương quốc Lưu Cầu (Ryukyu) vốn ở trong tình trạng không rõ ràng từ nhiều năm trước. Thời xa xưa, Lưu Cầu là một trong số 12 hòn đảo Nam hải gọi là đảo Xung Thằng (Okinawa). Năm 1186, Mạc phủ Kamakura bổ nhiệm tổ tiên của họ Shimazu là Tadahisa vào chức Thủ hộ của ba xứ Satsuma, Osumi và Hyuga, đồng thời cũng đặt Tadahisa vào vị trí địa đầu của 12 đảo Nam hải. Trong thời kỳ chiến loạn trong nước, họ Shimazu không thể can thiệp vào Xung Thằng nên đảo này xảy ra nội loạn. Đảo Xung Thằng phân thành ba thế lực tranh nhau là Hokuzan (Bắc Sơn),Chuzan (Trung Sơn) và Nanzan (Nam Sơn). Năm 1372, Trung Sơn Vương phái sứ giả sang triều đình của nhà Minh của Trung Quốc xin trở thành thuộc quốc hòng dựa vào thế lực của nhà Minh để thống nhất toàn đảo. Nhà Minh chấp thuận ban cho đảo Xung Thằng quốc hiệu mới là Lưu Cầu. Tuy nhiên mối quan hệ mới với nhà Minh này cũng không làm chấm dứt quan hệ thuộc quốc trong nhiều năm của Lưu Cầu với Nhật Bản. Năm 1441, tướng quân bấy giờ là Ashikaga Yoshinori phong đất Lưu Cầu cho Shimazu Tadakuni. Trong suốt thời Mạc Phủ Tokugawa, ít nhiều thì Lưu Cầu cũng là lãnh địa của nhà Shimazu, nhưng Lưu Cầu cũng tiếp tục duy trì quan hệ với Trung Quốc.
Tháng 2 năm 1872, tham sự tỉnh Kagoshima là Oyama Tsunayoshi cử quan chức của tỉnh sang Lưu Cầu, thừa nhận những lầm lỗi trong việc cai trị Lưu Cầu nhiều năm qua và truyền đạt mong muốn cải thiện quan hệ. Quốc vương Lưu cầu là Sho Tai (Thượng Thái) chấp nhận đề nghị. Trong lúc này thì Inoue Kaoru thuộc Bộ tài chính bắt đầu thu gom bản đồ, hộ tịch của Lưu Cầu và kiến nghị lên chính viện cần phải làm rõ tình trạng của Lưu Cầu là thuộc quản lý của nước nào. Oyama lệnh cho quan chức Kagoshima đang cư trú tại Lưu Cầu truyền đạt lại ý thất vọng của Chính phủ Nhật Bản: kể từ cuộc Duy Tân, quốc vương Lưu cầu chưa triều kiến lần nào, vì vậy quốc vương nên nhanh chóng cho sứ giả lên kinh để chúc mừng. Sho Tai chấp thuận gửi đoàn tiết sứ ba người đến Tokyo. Ngày 5 tháng 10, đoàn sứ tiết đến nơi. Ngày 16 đoàn sứ tiết yết kiến Thiên Hoàng, xếp hàng chung với các trọng thần trong đó có Thái chính đại thần Sanjo Sanetomi. Trong thư gởi Thiên Hoàng có nói: quốc phủ Lưu Cầu phủ phục ở đảo phương Nam xa xôi vui mừng khi thấy cuộc Duy Tân thành công rực rỡ. Đáp lại Thiên Hoàng cũng ban sắc ngữ rằng ngài lấy làm hài lòng khi thấy Lưu Cầu trước đây là thuộc quốc của phiên Satsuma trong thời gian dài, nay thề trung thành với triều đình. Sau đó, Thiên Hoàng ban sắc thư phong cho quốc vương Lưu Cầu là Lưu Cầu thiên vương, xếp vào hàng hoa tộc và gởi tặng quà gồm năm cuộn gấm Yamoto, ba khẩu súng săn, một bộ yên ngựa và một bình hoa pháp lam thất bảo cho phiên vương và vợ.
Mặc dù thể chế phiên trấn đã bị bãi bỏ qua chính sách phế phiên trí huyện, nhưng quốc vương Lưu Cầu vẫn được phong làm phiên vương thì chứng tỏ đây là cách xử lý tạm thời để dần dần đưa Lưu Cầu vào dưới sự cai quản của Nhật Bản và cuối cùng là đưa quần đảo Lưu Cầu trở thành một phần của Đế quốc Nhật Bản sau này.
Triều nghị ngày 27 tháng 12 năm 1878 bàn việc quyết định xử lý phiên trấn Lưu Cầu. Nội vụ khanh (tương đương Bộ trưởng nội vụ bây giờ) là Ito Hirobumi quyết tâm giáng cách Lưu Cầu từ phiên xuống thành đơn vị tỉnh. Như vậy, Lưu Cầu không còn là một vương quốc nữa mà chỉ là một tỉnh như bao tỉnh khác. Đằng sau quyết định này, trên thực tế, Lưu Cầu đã phớt lờ yêu cầu của chính phủ Nhật Bản đòi Lưu Cầu phải cắt đứt quan hệ với triều đình nhà Thanh. Phiên vương Lưu Cầu nhận được mệnh lệnh không được lệnh gởi sứ triều cống đến Trung Quốc, không gởi sứ chúc mừng khi hoàng đế nhà Thanh đăng quang và phiên vương không được nhận sắc phong từ hoàng đế nhà Thanh. Tuy nhiên đến nay triều đình Lưu Cầu vẫn chưa đề xuất thư tuân thủ mệnh lệnh này cho chính phủ Nhật Bản. Không những vậy mà phiên vương Lưu Cầu còn mật phái viên thân phương – wekata, chức quan cao nhất địa phương – là Thượng Đức Hoành sang Trung quốc để xin nước này chi viện; đồng thời còn lệnh cho Trì Thành thân phương An Quy đang đóng tại Tokyo nhờ vả công sứ Trung Quốc, Mỹ quốc, Pháp quốc và Hà Lan trú tại Nhật. Trì Thành cùng các quan địa phương trực tại Tokyo 14 lần đề xuất thư than vãn với chính phủ Nhật Bản xin được trở về với thể chế phiên Lưu Cầu trung thành với hai nước Nhật-Trung nhữ cũ. Trong thư của Trì Thành nhiều lần lặp đi lặp lại “phụ Hoàng mẫu Thanh” – tức Nhật Bản là cha, còn Trung Hoa là mẹ.
Tuy nhiên chính phủ Nhật bản cũng chủ trương rằng: “Một nước thờ hai đế khác chi một vợ theo hai chồng”. Trải qua nhiều thế kỷ, vương quốc Lưu Cầu phục vụ và triều cống cả hai chủ nhân là Trung quốc và phiên Satsuma, cách duy nhất mà một tiểu quốc không có nguồn lực hay sức mạnh quân sự tồn tại cho tới thời điểm đó. Nhận ra sự câu giờ xảo diệu của phiên vương Lưu Cầu, Ito lấy cớ thái độ không thỏa hiệp của phiên vương mà phế bỏ phiên trấn. Ito lệnh cho Nội vụ đại thư ký Matsuda Michiyuki thảo phương án xử lý phiên Lưu Cầu đổi phiên thành tỉnh và đòi hỏi phiên vương phải rời Lưu Cầu đến sống tại Tokyo. Phương án này được triều nghị thông qua và yêu cầu phải chấp hành mệnh lệnh của chính phủ trong vong một tuần; nếu như phiên vương cự tuyệt thì chính phủ sẽ dùng biện pháp cứng rắn. Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng bãi bỏ chế độ trực ban của phiên Lưu Cầu ở Tokyo lệnh cho các quan trở về phiên. Đây là bước đầu tiên của biện pháp bán tự trị của phiên Lưu Cầu. Matsuda và các quan lại Lưu Cầu rời cảng Yokohama trong ngày 8 tháng 1 năm 1879 để đến Naha.
Matsuda đến Naha vào ngày 25 tháng 1 và ngày hôm sau thì gặp mặt các qua địa phương cao cấp như Sho Hitsu (Thượng Bật), đại diện của phiên vương tại Thành Shuri (Thủ Lý). Matsuda đọc to là thư của Sanjo Sanetomi với đại ý như sau:
“Từ ngày 29 tháng 5 năm 1875, chính phủ Nhật Bản đã ra lệnh cho Lưu Cầu không được phái sứ đi nhà Thành triều cống, không được phái sứ đi chúc mừng khi hoàng đế nhà Thanh lên ngôi và không được nhận sắc phong từ nhà Thanh khi có sự thay đổi quyền lực trong phiên. Tuy nhiên Lưu Cầu vẫn lấy lý do than vãn mà nộp thư tuân thủ mệnh lệnh. Đến tháng 5 năm 1876, chính phủ Nhật Bản phái quan đến phiên Lưu Cầu. Lúc đó đáng lý mọi việc phán xử đều phải nhanh chóng chuyển giao nhưng Lưu cầu lại lấy lý do than vãn mà không chịu tuân thủ, quả thật là vô lễ khôn cùng. Nếu còn không chịu tuân lệnh nữa thì sẽ phải chịu hình phạt tương xứng, nên Lưu Cầu phải nhanh chóng có thái độ rõ ràng.”
Sau khi đọc xong truyền thư, Matsuda giao cho em trai của phiên vương là Sho Hitsu. Matsuda còn nói rằng nếu không tuân theo mệnh lệnh thì càng bị xử phạt nặng nề và đòi phiên vương phải có thư hồi đáp vào 10 giờ sáng ngày 3 tháng 2. Ngày 29 tháng 1, Matsda gởi đến phiên vương Sho Tai, yêu cầu tuân thủ mệnh lệnh cùng thư thệ nguyện với lý do rằng trước kia đã có tiền lệ vi phạm lời hứa nên nếu không có thư thệ nguyện thì chính phủ Nhật không thể trông đợi Lưu Cầu quán triệt thành ý được. Đến ngày hồi đáp thì đại diện của phiên vương cũng đề xuất thư bày tỏ ý sẽ tuân thủ mệnh lệnh của Thượng Thái.
Thư hồi đáp dùng lời lẽ trịnh trọng, giải thích vị thế khó khăn của phiên vương. Nếu như Lưu Cầu ngưng triều cống, chúc mừng triều đình nhà Thanh, không nhận sắc phong từ nhà Thanh nữa thì phiên Lưu Cầu sẽ không tránh khỏi việc bị nhà Thanh chỉ trích. Lưu Cầu là một tiểu quốc nhỏ bé lâm vào tình cảnh bị kẹt giữa hai đại quốc, không biết phải xoay sở ra sao. Cuối thư kết lại bằng việc cầu xin phía Nhật thương tình, “cả phiên đồng loạt phủ phục, cúi đầu trăm bái”.
Sho Tai quyết chẳng phải là nhân vật tôn kính gì, nhưng chí ít cũng là quốc vương của một nước mà nay lại hạ mình cầu xin một quan chức, quả là có chỗ khiên lòng người dao động. Nhưng trong vai trò xử lý vấn đề của Lưu Cầu, Matsuda với trách nhiệm và sứ mệnh của mình cũng không có chỗ cho lòng trắc ẩn đối với vị phiên vương. Matsuda chỉ trích nội dung thư hồi đáp rằng phiên vương vẫn cự tuyệt mệnh lệnh của triều đình, mình phải về kinh đô ngay lập tức để báo cáo tình hình và dặn dò đại diện của phiên vương hãy đợi mệnh lệnh sau đó. Đại điện của phiên vương kêu ca cầu xin thông cảm nhưng Matsuda bác bỏ và còn nói thêm rằng từ nay về sau, quan lại trong phiên khi lên kinh đô hay đi đâu ra khỏi phiên, bất kể công tư đều phải thông qua sở xuất ngoại của Nội vụ sảnh, phải được phép của nội vụ khanh. Matsuda còn đề cập rằng dù đã có chỉ thị sử dụng niên hiệu Minh Trị nhưng Lưu Cầu vẫn còn dùng niên hiệu Quang Tự của nhà Thanh, rõ ràng là dối gạt chính phủ Nhật và việc này hoàn toàn bị nghiêm cấm.
Ngày hôm sau Matsuda trở về Tokyo. Ngày 11 tháng 3, Thiên hoàng phát lệnh phế bỏ phiên trấn Lưu Cầu, ra sắc lệnh phiên vương Sho Tai cùng gia đình đến sống tại Tokyo. Phiên trấn Lưu Cầu nay trở thành tỉnh Okinawa, còn những thành viên khác thì ban cho danh hiệu hoa tộc. Ngày 12, Matsuda cùng hơn 160 cảnh sát, được lệnh đến Lưu Cầu, rời khỏi cảng Yokohama. Tại Kagoshima, Matsuda còn nhận thêm đội hỗ trợ lên số 600 người. Cả đoàn đến Naha vào ngày 25. Phiên vương viện cớ mang bệnh nên không tiếp kiến. Nhưng đêm 29 tháng 3 rời khỏi Thành Shuri, thành trì của Lưu Cầu trong hơn 500 năm qua, rời bỏ nơi đã trải qua nửa cuộc đời mình để đến sống ở dinh của đích tử là Thượng Điển.
Sự phản kháng của Sho Tai cũng mang lại kết quả nhất định. Ngày 5 tháng 4, Thiên hoàng phái thị tòng Tominokoji Hironao làm nội sắc sứ đến Okinawa để an ủi Sho Tai. Thiên hoàng lệnh cho Tominokoji khuyên Sho Tai lên thủ đô càng sớm càng tốt, đồng thời cũng cho tàu Meji Maru – một con tàu hơi nước hiện đại lúc đó – đến đón để đảm bảo an toàn trên biển cho cựu Phiên vương.
Tominokoji đổ bộ lên Naha vào ngày 13 tháng 4, lập tức cùng Matsuda và 30 cảnh sát hộ vệ tiến vào Viên Giác Tự ở Shuri. Sho Tai lấy cớ mang bệnh nên cố từ chối không gặp sắc sứ mà xin để cho đích tử là Sho Ten (Thượng Điển) ra thay. Tominokoji từ chối yêu cầu này và tự thân đến nơi ở tạm của Sho Tai. Các vương tử cùng các quan lại cũ đều ra cổng nghênh đón, đích tử Sho Ten hướng dẫn vào chánh đường, tiếp đãi trà bánh. Tominokoji vào giường bệnh của Sho Tai. Sho Tai để lễ phục và mũ mão bên gối vờ mặc vào – ra dấu đáp lễ với sắc sứ. Sho Tai được hai thị giả đỡ dậy, rời khỏi chiếu mà xuống thi hành lễ.
Sắc sứ truyền đạt thánh dụ, Sho Tai bái tạ. Khi Tominokoji hỏi có tuân theo thánh dụ hay không thì Sho Tai hứa đến hôm sau sẽ trả lời. Sau khi kết thúc lễ nghi thăm viếng thì Matsuda rời khỏi ghế, ngồi xuống sàn, tỏ ý đồng cảm với bệnh tình của Sho Tai, rồi an ủi nỗi khó nhọc mà phiên vương trải qua trong mấy tháng trước. Tominokoji vẫn lời lẽ xoa dịu mà hỏi han. Mặt mũi Sho Tai trắng bệch, tuy không có vẻ hốc hác như người có bệnh nhưng rõ ràng là cũng không mang vẻ mặt của một con người lành lặn.
Ngày 14, Matsuda gọi các trọng thần trong phiên đến, thúc dục hồi đáp. Dĩ nhiên là cựu phiên vương không dễ gì chịu rời khỏi Okinawa. Sho Tai lấy lý do mang bệnh nên xin trì hoãn kì hạn lên thủ đô. Matsuda thấy bệnh tình của Sho Tai là bệnh mãn tính, không trông đợi ở việc chữa trị dứt điểm nên từ chối lời cầu xin. Ngày 15, em trai của Sho Tai là Sho Hitsu (Thượng Bật) cùng hơn 2 quan lại đến sở xuất ngoại của Nội vụ sảnh, cầu xin trì hoãn bốn, năm tháng và cũng xin cho một vương tử cùng sắc sứ lên thủ đô làm tin để Sho Tai được hoãn kỳ hạn rời Okinawa. Ngày 16, 150 sĩ tộc ở 21 làng cùng các vương tử, trọng thần của phiên trấn cũ đều cầu xin hoãn kì hạn 90 ngày. Lời cầu xin ngay lập tức bị từ chối. Phía Nhật giải thích rằng chuyến đi của Sho Tai được tàu của chính phủ bảo vệ đặc biệt nên không cần phải lo lắng.
Phía Nhật kiên quyết không nhượng bộ do lo sợ mối nguy tiềm ẩn, nếu như Sho Tai cứ liên tục trì hoãn việc lên Tokyo thì phía Trung Quốc càng có thời gian can thiệp vào chuyện này. Việc Sho Tai càng sớm lên thủ đô thì càng giảm được nguy cơ đó.
Sho Tai lên thủ đô dự định là ngày 18. Nhưng trước đó, Sho Hitsu cùng các cận thần đã than vãn cầu xin 90 ngày không phai vì sức khỏe của Sho Tai mà còn là vì các cựu phiên sĩ đang dao động hoang mang vì cải cách lần này. Phiên vương muốn đích thân thuyết phục dân chúng và bàn giao hết mọi việc. Đồng thời, bọn họ còn xin cho đích tử là Sho Ten được lên kinh. Lúc này thì Matsuda đồng ý cho hoãn kì hạn nhưng chẳng có lý do gì để trì hoãn tới 90 ngày cả và rút ngắn lại kì hạn rồi lệnh thời điểm xuất phát là 10 giờ ngày 18.
Matsuda nghĩ rằng nếu các cựu phiên sĩ có phản loạn thì cũng không đáng ngại, và định bụng rằng nếu Sho Tai mà kháng cự thì sẽ dùng vũ lực để ép lên kinh đô. Mặt khác, nếu để Sho Ten lại Okinawa thì có thể các cựu phiên sĩ sẽ ủng hộ người này gây phản loạn, khiên Trung Quốc có thể can thiệp vào. Kế sách tốt nhất là đưa cha con Sho Tai về thủ đô. Vì vậy mà Matsuda đồng ý cho Sho Ten lên kinh trước, còn việc Sho Ten xin cho cha mình hoãn kì hạn về kinh thì giao cho Thái chính qun quyết định. Khi Sho Ten đã về kinh thì bác bỏ lời cầu xin để Sho Tai được hoãn kì hạn. Matsuda nghĩ rằng việc lên kinh của Sho Tai được ủy thác cho Thái chính quan – cơ quan chịu trách nhiệm tối cao của chính phủ – còn mình chỉ việc tấu thêm sắc sứ và thị y đến Okinawa và thúc dục Sho Tai lên kinh là đủ.
Ngày 18, Sho Hitsu cùng các trọng thần tới thăm Matsuda, xin hoãn kì hạn của Sho Tai còn 80 này và xin để đích tử là Sho Ten lên kinh đô. Matsuda đáp lại rằng nếu hoãn kì hạn trong vòng 40 ngàu thì hỏi xin sắc sứ, và khi đó Sho Ten phải lên kinh ngay để tạ ơn. Còn nếu xin hoãn kì hạn tới 80 ngày thì Sho Ten phải lên kinh cầu xin Thái chính quan, và Sho Tai phải trần tình với sắc sứ về việc cho Sho Ten lên kinh để xin hoãn kì hạn. Ngày hôm sau, sắc sứ chấp nhận với lời trần tình của Sho Tai. Như vậy là Sho Ten đồng hành cùng sắc sứ về kinh đô. Ngày 19 tháng 4 sắc sứ Tominokoji Takanao cùng Sho Ten lên tàu Meiji Maru rời cảng Naha.
Tàu Meiji Maru cập cảng Yokohama vào ngày 1 tháng 5. Ba ngày sau, Thiên hoàng Minh trị tiếp kiến Sho Ten cùng năm trọng thần của cựu phiên. Năm người này đứng ở gian ngoài mà lễ bái. Ngày 5, Sho Ten dâng tặng vật cho Thiên hoàng và hoàng hậu và đề xuất thư thỉnh nguyện lên Thái chính quan, xin cho cha là Sho Tai được hoãn kì hạn lên kinh. Tuy nhiên, thư thỉnh nguyện bị bác bỏ, và Sho Ten được lệnh phải ở lại kinh đô. Tất cả đều tiến hành theo đúng kịch bản của Matsuda.
Ngày 5, Thiếu tá lục quân Sagara Nagaoki và ngũ đẳng Thị y Takashina Tsunenori đến Okinawa để chẩn đoán bệnh tình của Sho Tai. Đến nơi vào ngàu 18, hai người cùng Matsuda đến thăm nơi ở tạm của Sho Tai ở Shuri. Theo chẩn đoán của Takashina thì Sho Tai mắc chứng tụ huyết ở vùng hạ vị liên quan đến thần kinh. Tuy bây giờ bênh chưa hiểm nhưng qua năm tháng thì bệnh này không dễ chịu chút nào. Nghe xong Matsuda soạn thư gởi Sho Tai, thông báo rằng chính phủ Nhật không chấp nhận cho Sho Tai hoãn kì hạn lên kinh. Sho Tai phải lên đường về kinh đô trong vòng một tuần. Cuối cùng cựu phiên cũng quyết ý lên kinh, nhưng xin thời hạn là 3 tuần. Hơn 60 sĩ tộc từ Shuri, Naha, Kume và Tamari cũng xin Nội vụ sảnh nhưng Matsuda cứng rắn từ chối. Ngày xuất phát của cựu phiên vương được ấn định là ngày 27 tháng 5.
Cuối cùng Trung Quốc cũng có kiến nghị. Ngày 10 tháng 5, Cung Thân vương của Tổng lý nha môn cùng các đại thần kí tên gởi thư đến công sứ đặc mệnh toàn quyền đóng tại Bắc Kinh là Shishido Tamaki với đại ý như sau: Từ mấy trăm năm qua, vương quốc Lưu Cầu đã dùng lịch của Trung Quốc và cống nạp cho nhà Thanh. Tuy nhiên, nhà Thanh hoàn toàn để Lưu Cầu tự do về chính trị và luật pháp, xem Lưu Cầu như là một nước độc lập. Nhưng bây giờ chính phủ Nhật Bản lại đặt Lưu Cầu thành tỉnh của mình, việc này chẳng những vị phạm hiệp ước hữu hảo Nhật-Trung mà còn tiêu diệt một đất nước, khiến việc tế lễ tổ tiên của họ bị đoạn tuyệt. Hành vi này là xem thường Trung Quốc và các nước khác. Cách tốt nhất để thiết lập lại quan hệ là mau chóng dừng việc xâm hại chủ quyền của Lưu Cầu.
Tuy nhiên trong lập trường của Trung Quốc có một nhược điểm. Theo như hiệp định mà đại thần được ủy nhiệm toàn quyền phía Nhật là Okubo Toshimichi kí kết với Trung Quốc ở Tổng lý nha môn vào tháng 10 năm 1874 thì Trung Quốc thừa nhận quốc dân Lưu Cầu là thần dân Nhật Bản. Chính phủ Trung Quốc còn đồng ý trả tiền bồi thường cho gia đình các ngư dân Lưu Cầu bị sát hại ở Đài Loan. Điều này nói lên rằng chính phủ Trung Quốc thừa nhận ngư dân Lưu Cầu là “quốc dân Nhật Bản”. Khi Ngoại vụ khanh Terashima Munenori nhận kháng nghị từ Trung Quốc thì đáp lại rằng vấn đề Lưu Cầu là chuyện nội bộ của Nhật Bản, nước khác không nên can dự vào.
Trung Quốc còn một cách khác với hy vọng sẽ ngăn được Nhật Bản. Cựu Tổng Thống Mỹ Ulysses S. Grant đến thăm Trung Quốc vào tháng 5 cũng có dự định đến Nhật. Grant đến thăm Nhật mang theo lá thư của Cung thân vương có lẽ sẽ dùng ảnh hưởng của mình mà thay đổi được suy nghĩ của người Nhật. Nói sơ qua sự kiện này một chút. Grant cập cảng Nagasaki đến Nhật vào ngày 21 tháng 6 năm 1879. Ngày 22 tháng 7, Grant gặp các đại biểu trong chính phủ Nhật tại Nikko để truyền đạt lại lập trường của Trung Quốc về vấn đề Lưu Cầu. Ito đáp lại rằng : “Chủ quyền của Nhật đối với Lưu Cầu có từ thời Cổ “. Ngoại vụ khanh Terashima Munenori còn chỉ ra rằng ngôn ngữ, văn tự, tôn giáo, phong tục của quần đảo Lưu Cầu tương đồng với Nhật Bản. Lưu Cầu đã triều cống cho Nhật Bản từ thời Tùy, Đường xa xưa, và đến thế kỉ XII thì Minamoto Tametomo du hành đến Lưu Cầu lấy em gái của đảo trưởng và sinh ra một người con trai sau này trở thành Vua Shunten (Thuấn Thiên) của hòn đảo. Terashima còn nêu rõ mối quan hệ mật thiết của giữa Lưu Cầu và Satsuma, cuối cùng nhắc đến việc phiên trấn Lưu Cầu đã bị phế bỏ và thay bằng tỉnh Okinawa và bây giờ là lãnh thổ thuộc Đế quốc Nhật Bản. Đáp lại, Grant giải thích rằng sự quan tâm của mình xuất phát từ việc nghĩ cho hai nước Nhật-Trung chứ không có ý gì khác.
Trở lại ngày 27 tháng 5, Sho Tai rời cảng Naha tiến vào cảng Yokohama vào ngày 8 tháng 6. Sho Tai đi cùng với thứ nam Sho In (Thượng Dần) cùng hơn 40 cựu phiên thần khác. Ngày hôm sau, ngày 9 tháng 6, Sho Tai vào dinh của Cung nội sảnh ở phố Fujimi. Ngày 17 tháng 6, Sho Tai cùng đích tử Sho Ten, thứ nam Sho In và hơn 10 cựu thần vào triều, yết kiến Thiên hoàng. Ngày hôm đó, Sho Tai được phong tước tòng tam vị, còn Sho Ten được phong tòng ngũ vị, Matsuda cũng được phong huân chương tam đẳng vì cong lao xr lý vấn đề Lưu Cầu. Như vậy, một tiền lệ về việc xử lý vị quân chủ bị phế truất được tạo ra và sau này người Hàn cũng áp dụng theo để hợp nhất Triều Tiên.
Tuy mang thân phận của kẻ bị đày ải nhưng Sho Tai được đối đãi rất tử tế. Cuộc sống của Sho Tai ở Tokyo còn hạnh phúc hơn nhiều khi so với 31 năm trị vì ở Lưu Cầu. Cựu phiên được giải thoát khỏi tranh đấu vô tận giữa hai đảng phái ở Okinawa và giờ đang rất sung sướng.
Việc sáp nhập Okinawa vào bản đồ Nhật Bản ít khi xuất hiện trong sách lịch sử nước Nhật. Cái tên Sho Tai cũng chiếm một phần rất nhỏ trong từ điển nhân danh. Ngay cả khi ShoTai còn là quốc vương thì cũng không phải là nhân vật quan trọng về mặt chính trị và hơn 20 năm cuối đời của ông ta cũng không được biết tới. Nhưng không rõ vì lý do gì mà đến tận bây giờ cũng còn những người tiếc thương cho vị vua này. Một vị quốc vương của hòn đảo nhỏ đành phải thoái vị, trở thành vật hy sinh cho một đại quốc thử nghiệm sức mạnh của nó trong một kỉ nguyên hiện đại.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *