Chắc hẳn chúng ta ai cũng biết đến “Great Wall of China” – Vạn lý trường thành nổi tiếng thế giới. Chúng ta cũng hay nói rằng Trường thành được xây để bảo vệ Trung Hoa khỏi mối nguy từ các kẻ thù du mục phương Bắc. Nhưng câu hỏi: thế thì các dân tộc phương Bắc có ngại người Trung Hoa đến mức phải xây tường thành ngăn người Hán không? Thì câu trả lời là: có. Một chuỗi các bức tường và hàng rào dài hơn 1.300km đã được xây dựng đầu thời Thanh để phục vụ việc này – và nó được gọi là “Liễu Điều Biên” của Mãn Châu.
Thực tế mà nói, vai trò của Liễu Điều Biên trong lịch sử thường ít được nói tới, nhất là khi so sánh nó với Vạn Lý trường thành. Nhưng vào năm 1969, một cuộc “đấu khẩu” ngoại giao về vấn đề lịch sử đã khiến vai trò của Liễu Điều Biên được người Trung Quốc xem xét và nghiên cứu lại.
Số là năm 1969, tranh chấp biên giới giữa Liên Xô và Trung Quốc trở nên căng thẳng trên tuyến biên giới sông Amur và Ussuri, chủ yếu xoay quanh những hòn đảo trên sông mà các hiệp ước biên giới thời trước chưa phân định rõ. Ngày 13/6/1969, chính phủ Liên Xô ra tuyên bố thể hiện quan điểm của mình về vấn đề biên giới, trong đó họ đưa ra ý kiến đại ý là: “biên giới truyền thống của người Trung Quốc xưa chỉ kéo dài đến Liễu Điều Biên do nhà Thanh xây dựng. Các khu vực tỉnh Hắc Long Giang và sông Ussuri do vậy hoàn toàn nằm ngoài lãnh thổ truyền thống Trung Quốc”. Các vùng này sau đó bị Đế quốc Nga chiếm từ tay nhà Thanh, rồi mới được Liên Xô trao cho Nhật rồi về tay Trung Quốc sau này. Do vậy, phía Liên Xô hoàn toàn bác bỏ mọi tuyên bố chủ quyền của CHND Trung Hoa với các lãnh thổ tranh chấp trên.
Nghe rối não vậy thôi, chứ thực ra hàm ý của Liên Xô lúc đó là: họ coi dân tộc Mãn Châu và nhà Thanh không phải là triều đại của Trung Quốc, mà chỉ là kẻ ngoại tộc xâm lược cai trị Trung Hoa. Do vậy, biên giới của Mãn Châu không được tính vào biên giới Trung Quốc trong các vấn đề tranh chấp.
Trung Quốc đáp lại khá đuối. Ngày 9/101969, Nhân dân Nhật Báo đăng bài “Bác bỏ Tuyên bố của Chính phủ Liên Xô ngày 13 tháng 6 năm 1969”. Bản chất của vụ việc rõ ràng là tính chính thống của nhà Thanh và lãnh thổ Mãn Châu trong lịch sử Trung Hoa, tuy nhiên do phía Liên Xô cố ý lái nó vào một vấn đề nhỏ hơn là “tuyến biên giới nhà Thanh xây dựng thế kỷ 17”, nên phía Trung Quốc cũng buộc phải chạy theo vấn đề này. Khổ nỗi, lúc đó nghiên cứu của Trung Quốc về tuyến “Liễu Điều Biên” chưa nhiều do bị coi nhẹ. Họ chỉ có thể phản bác yếu bằng luận điểm “Liễu Điều Biên không thể coi là biên giới Trung Hoa”. Sau đó, họ lại phải ra sức tố cáo triều đại Mãn Thanh đã xây nên tuyến biên giới này, đại ý nói rằng đó là một âm mưu xấu xa của các vua Mãn Thanh chia cắt Mãn Châu với phần còn lại của Trung Quốc. Phải mãi đến sau này, giới nghiên cứu Trung Quốc hiện đại mới có nghiên cứu, xem xét lại cặn kẽ vai trò của “Liễu Điều Biên” trong lịch sử Trung Hoa.
Theo nghiên cứu, ý tưởng cách ly vùng Mãn Châu với Trung Hoa và cả những lãnh thổ khác đã có từ các vua thời đầu nhà Thanh. Ngay từ thời đầu, đã có những bức tường rào được xây để ngay cách Mãn Châu với Mông Cổ và Triều Tiên. Nhưng Liễu Điều Biên ngăn cách với Trung Hoa chính thức chỉ được đẩy mạnh xây dựng dưới thời vua Càn Long, khoảng nửa sau thế kỷ 17. Do vậy, tổng cộng có 3 phần riêng biệt của hệ thống tường rào này.
Ở phía Đông, vào thời đầu nhà Thanh người Triều Tiên thường qua Mãn Châu săn trộm nhân sâm, và xảy ra tranh chấp với cư dân Mãn Châu. Để hạn chế điều này, năm Sùng Đức thứ 3 (tức năm 1638), vua Hoàng Thái Cực lệnh cho xây một hệ thống tường rào từ Phụng Thiên ngày nay, kéo dài tới dãy Trường Bạch gần biên giới Triều Tiên. Do lần đầu xây dựng, nên hệ thống này chỉ được xây bằng đất đá và trồng nhiều hàng liễu dày nối tiếp nhau để ngăn người Triều Tiên xâm nhập. Cái tên “Liễu Điều Biên” (biên giới trồng cây liễu) bắt nguồn từ đó. Do không có công trình bằng gạch, ngày nay di tích của phần tường phía Đông này chỉ còn là những hàng liễu dày còn tồn lại.
Đến năm Thuận Trị thứ 5 (1648), vua Thanh cho xây thêm một tường rào ở phía Tây để ngăn cách khu vực chăn thả của người Mông Cổ với vùng canh tác của nhà Thanh, không cho gia súc của Mông Cổ vào ăn. Phần tường phía Tây hình thành, lần này xây cả bằng gạch, đất đá lẫn trồng liễu. Phần tường phía Tây này có đặc điểm là chạy qua cả Cố cung Thẩm Dương lẫn Thanh Vĩnh Lăng, những nơi được coi là đặc biệt quan trọng với tổ tiên các vua Thanh. Do vậy, phần tường được bảo vệ rất kỹ, ngày nay vẫn còn sót lại nhiều di tích bằng gạch.
Sau này, khi người Mãn Châu chinh phục Trung Hoa, dời đô về Bắc Kinh, các vua Thanh vẫn coi vùng Đông Bắc lầ nơi quan trọng cần bảo vệ, nhất là các cung điện vua Thanh. Do vậy, thời kỳ đầu, các hoàng đế Mãn Thanh vẫn ban hành các chính sách cấm nhập cư người Hán vào vùng Đông Bắc. Từ năm Khang Hy thứ 9 (năm 1670), nhà Thanh tiếp tục xây dựng một hệ thống tường rào mới ngăn cách Trung Hoa với Mãn Châu, gọi là “Tân Biên”. Lần này, người Mãn Châu sử dụng các tù nhân người Hán bị đi đày viễn xứ tới một nơi gọi là “Ninh Cổ Tháp”. Trong 10 năm, hàng nghìn tù nhân, tội phạm người Hán bị đày đọa ở đây để xây dựng một bức tường dài 700km kéo dài từ thành phố Cát Lâm ngày nay tới sông Tùng Hoa.
Đến năm Khang Hy thứ 20 (1681), hệ thống “Liễu Điều Biên” của nhà Thanh coi như đã hoàn thành. Chiều dài tổng cộng 1.900km. Theo miêu tả, ở những đoạn tường được xây kỹ nhất, người ta xây tường gạch. Có những nơi cho quân canh gác đồn trú thì người ta xây hẳn nhà ở, trại lính. Hiện nay còn khoảng 20 đồn lính như vậy tồn tại, chứng minh sự tồn tại của hệ thống tường rào thời nhà Thanh. Ngoài ra, còn có hơn 300 biển báo, được khắc chữ vào đá đặt dọc tuyến tường rào này, nhằm cảnh báo người Hán không được xâm nhập. Ở các thành phố Thẩm Dương, Phủ Thuận, Cẩm Châu,… của tỉnh Liêu Ninh ngày nay vẫn còn nhiều tấm bia đá khắc như thế.
Ở những đoạn ít quan trọng hơn, người ta đào hào rộng 3 feet, xây kè đất cao từ 6-9 feet. Ở những đoạn không cần bảo vệ nghiêm ngặt, các hàng liễu được trồng dày, kéo dài hàng trăm cây số. Mà theo thực tế cho thấy, đa phần những phần tường kiên cố chủ yếu nằm ở phần tường phía Tây ngăn Mãn Châu với Mông Cổ và Trung Hoa, bảo vệ lăng tẩm các vua Thanh. Còn phần tường ngăn với Triều Tiên thì chỉ xây bằng đất và trồng liễu ngăn cách.
Đó là về cấu tạo của Liễu Điều Biên, còn vai trò và ảnh hưởng của nó trong lịch sử Trung Hoa như thế nào? Câu trả lời là nó không phát huy được hiệu quả cho mục đích mà các vua Thanh mong muốn.
Ban đầu, các bức tường được dựng nên để ngăn người Hán xâm nhập Mãn Châu. Nhưng mà ai ngờ được, sau khi chinh phục Trung Hoa giàu có thì chính người Mãn Châu lại di cư nhiều hơn đến Trung Hoa. Người ta ước tính trong thời kỳ đầu tới thời vua Ung Chính, dân số Mãn Châu đã giảm tới 1,6 triệu dân. Điều này khiến vùng Đông Bắc trở nên hẻo lánh và hoang tàn. Do vậy cho đến thời vua Ung Chính, các vua Thanh vẫn cho phép một bộ phận dân cư người Hán được đi khai hoang ở Đông Bắc, nhưng dĩ nhiên vẫn có một số hạn chế. Đơn cử như việc họ chỉ cho người Hán lên Đông Bắc canh tác vào mùa thu, bắt buộc phải trở lại trước mùa xuân. Lịch trình thế này giống với chim di cư nên người ta gọi nó là chính sách “Nhạn hành”.
Nhưng qua đời vua Càn Long thì mọi chuyển đảo ngược. Vua Càn Long lại rất không ưa việc đưa người Hán lên vùng Đông Bắc, kể cả là tội phạm. Càn Long ra lệnh cấm triệt để việc cho người Hán di cư qua giới hạn của “Liễu Điều Biên”, trừng phạt nghiêm khắc các quan lại người Mãn tiếp tay cho người di cư và tăng cường quân sự bảo vệ các vùng biên giới Mãn Châu trước người Hán. Đối với các tội phạm trước đây, thường sẽ bị đày đi Ninh Cổ, thì đến thời Càn Long sẽ bị đưa ra chiến trường khói lửa. (Nguyên gốc câu của Càn Long là: “其人犯发遣之罪者,应改发于各省烟瘴地方”).
Riêng với lính Bát Kỳ ở Đông Bắc, Càn Long ra lệnh cấm ngặt việc họ tham gia làm ăn, canh tác với người Hán, mà phải tập trung vào nghĩa vụ quân sự bảo vệ lãnh thổ.
Các chính sách này của Càn Long đã ít nhiều gây hại ngược lại cho người dân Đông Bắc. Không có các đợt di cư, khai hoang của người Hán, vùng Mãn Châu bị bỏ hoang đất đai, cư dân nghèo đói ngày càng nhiều. Ngay cả lính Bát Kỳ trước kia tham gia khai hoang với người Hán, nay không còn việc gì làm để sinh sống, nhiều người rơi vào nghèo khó, thậm chí xảy ra tình trạng đào ngũ của lính Bát Kỳ. Năm 1743, nhà Thanh phải ban luật “Đào Kỳ Pháp” (逃旗法) – luật Cấm người dân và binh lính Đông Bắc trốn khỏi Mãn Châu, nhưng cũng không đủ để ngăn cản dân và lính nghèo ở Mãn Châu “xuất kỳ” (出旗) – trốn khỏi các kỳ ở Mãn Châu.
Có thể thấy, các chính sách cấm đoán di cư thời Càn Long vừa làm mất đi sinh kế của phần lớn dân cư người Hán, vừa khiến vùng Đông Bắc hoang tàn, trực tiếp khiến quân Bát Kỳ thời này suy yếu nghiêm trọng. Do vậy, sau này người Trung Quốc chửi “Liễu Điều Biên” chính là chửi Càn Long.
Năm 1792, Trung Quốc chịu một đợt hạn hán khủng khiếp, dân đói mất mạng cả chục vạn người. Trước tình thế khốn đốn đó, vua Gia Khánh quyết định thay đổi chính sách của tiên đế Càn Long, mở cửa lại cho người Hán di cư lên Đông Bắc canh tác. Để quản lý, nhà Thanh cho lập 4 huyện đầu tiên cho người di cư ở Mãn Châu là Trường Xuân, Xương Đồ, Bá Đô Nột, Tân Miên. Từ đó, dân nhập cư vào Mãn Châu lại tăng chóng mặt, từ 950.000 người vào năm 1780, đến năm 1820 đã tăng lên 2,47 triệu người. Đến năm 1801, lũ lụt lại tàn phá Trung Hoa, đẩy hàng vạn cư dân người Hán lên Đông Bắc kiếm sống. Từ đây, làn sóng di cư bắt đầu mất kiểm soát. Tình hình trở nên rối loạn do người di cư quá đông. Đến năm 1813, thêm một nạn lụt xảy ra, dân di cư vùng Đông Bắc đã khởi nghĩa lớn chống triều đình.
Vào năm 1860, bước ngoặt xảy đến khi Đế quốc Nga mở rộng tới Mãn Châu, cướp nhiều đất đai nhà Thanh. Các vua Thanh bây giờ thấy được kẻ thù nguy hiểm nhất không còn là dân Hán di cư và là quân xâm lược Nga. Do vậy, năm 1873 triều đình hủy bỏ mọi hạn chế di cư với người Hán, khuyến khích càng nhiều người lên Đông Bắc càng tốt. Nhưng đã quá muộn, 1 triệu km2 đất đai ít người của nhà Thanh đã bị Nga chiếm mất.
Từ đó tới nay, hầu hết các đoạn của “Liễu Điều Biên” do các vua Thanh xây đời trước đã bị xóa bỏ theo thời gian, do chính bản thân nó đã thất bại trong việc ngăn cản người di cư. Tuy vậy, ở tỉnh Liêu Ninh ngày nay vẫn còn sót lại nhiều di tích lẻ tẻ liên quan đến công trình này, bao gồm nhiều đoạn tường, bia đá, hàng cây liễu cổ,…. Để bảo vệ, phục vụ cho nghiên cứu lịch sử, năm 2004 chính phủ Trung Quốc đã đưa những bức tường và hàng cây liễu cổ ở Liêu Ninh vào danh sách “di tích văn hóa tỉnh Liêu Ninh”.
Ảnh: sơ đồ 3 đoạn tường rào của “Liễu Điều Biên” (đường màu xanh lá)
