LIÊN XÔ LÀM GIÀU NHỜ GIÁ DẦU NHƯ THẾ NÀO?
KHỞI NGUỒN NGÀNH DẦU MỎ LIÊN XÔ
Dầu đã được chiết xuất từ thời cổ đại, chủ yếu cho các mục đích xây dựng và y tế. Đầu thế kỷ 20, Đế quốc Nga là một trong những nhà sản xuất dầu hàng đầu thế giới, chiếm 30% thị trường. Cuộc cách mạng năm 1917, Nội chiến và quốc hữu hóa các công ty dầu mỏ đã tác động mạnh đến ngành dầu mỏ, khiến nó gần như suy sụp. Năm 1923, tình hình trong ngành dầu khí Liên Xô đã dần khôi phục và xuất khẩu dầu trở lại mức trước cách mạng. Các khu vực Kavkaz và Caspi vẫn là khu vực sản xuất dầu quan trọng nhất của đất nước và có tầm quan trọng chiến lược.
Sau chiến tranh, các vùng dầu mới được phát hiện. Khai thác các vùng lãnh thổ rộng lớn ở Tây Siberia đã được tiến hành vào những năm 1960. Sự gia tăng xuất khẩu dầu của Liên Xô dẫn đến sự sụt giảm giá dầu thế giới và là một trong những lý do cho việc thành lập Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) vào năm 1960.
THU LỢI NHUẬN KHỦNG
Vào ngày 17 tháng 10 năm 1973, toàn bộ Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ Ả Rập ( Organization of Arab Petroleum Exporting Countries / OAPEC – xin đừng nhầm lẫn với OPEC ) đã quyết định ngừng bán xăng dầu cho các nước ủng hộ Israel trong Chiến tranh Yom Kippur chống lại Ai Cập và Syria. Những quốc gia này là Canada, Nhật Bản, Hà Lan, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Lệnh cấm vận đi kèm với việc cắt giảm sản lượng hàng tháng dần dần – đến tháng 12 năm 1973, sản lượng của OAPEC chỉ còn 1/4 của tháng 9 năm 1973.
Quyết định của OAPEC đã gây ra một cuộc suy thoái kinh tế và khủng hoảng toàn cầu. Đến cuối lệnh cấm vận năm 1974, giá dầu đã tăng từ 3 đô la lên 12 đô la, và ở Mỹ, nó thậm chí còn cao hơn. Arab Saudi nhanh chóng thu gom được khối tài sản khổng lồ nhờ giá dầu cao. Tình trạng này cũng rất có lợi cho Liên Xô, một trong những nhà sản xuất dầu khí hàng đầu thế giới: thu nhập từ dầu khí chiếm hơn một nửa thu nhập quốc dân. Trong khi đó, tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi và GDP giảm 6%.
Năm 1979, Cách mạng Hồi giáo ở Iran khiến ngành sản xuất dầu Iran bị cắt giảm sản lượng nghiêm trọng, dẫn đến giá dầu toàn cầu tăng mạnh. Cuộc chiến Iran – Iraq bắt đầu vào tháng 9 năm 1980 chỉ làm tình hình thêm trầm trọng. Liên Xô kiếm được lợi nhuận khổng lồ nhờ bán dầu của nó. Nhưng vào đầu những năm 1980, giá dầu bắt đầu giảm vì mọi người đua nhau sản xuất quá mức. Giá giảm liên tục từ năm 1980 trở đi.
KINH TẾ KHỦNG HOẢNG VÀ SỤP ĐỔ
Năm 1986, thảm họa Chernobyl đã xảy ra đã giáng một đòn mạnh vào nền kinh tế, hình ảnh quốc tế và ngành năng lượng của Liên Xô. Cũng vào những năm 1980, ngành dầu khí Liên Xô bước vào thời kỳ suy tàn. Lý do là sự cạn kiệt của các giếng hiện có do khoan sâu và thiếu đầu tư vào việc thăm dò mỏ mới.
Tháng 9 năm 1985, Ả Rập Saudi bắt đầu tăng nhanh khai thác bất kể giá dầu vẫn còn thấp. Trong bốn tháng, khai thác của Saudi đã tăng từ hai triệu lên 10 triệu thùng mỗi ngày và giá giảm mạnh từ 32 USD một thùng rớt thê thảm xuống 10 USD. Đối với nền kinh tế của Liên Xô – đã quen với thu nhập từ giá dầu mỏ cao cắt cổ, đây là một đòn chí tử. Chỉ riêng năm 1986, Liên Xô đã bị thổi bay mất hơn 20 tỷ USD (khoảng 7,5% thu nhập hàng năm của Liên Xô), và nó đã bị thâm hụt ngân sách trầm trọng. Liên Xô rơi vào suy thoái sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1985-1986. Thế là quá đủ để nền kinh tế Xô Viết vốn đã không lành mạnh, sụp đổ. Năm 1986, các khoản vay bên ngoài của Liên Xô là khoảng 30 tỷ USD; đến năm 1989 họ đã đạt tới mức nợ kỷ lục 50 tỷ USD.
Dầu mỏ không hẳn là lý do duy nhất khiến Liên bang Xô Viết sụp đổ. Tuy nhiên gánh nặng quân sự từ việc duy trì đạo quân hơn 4 triệu người, đông nhất thế giới lại đang sa lầy ở Afghanistan, nền kinh tế quan liêu bao cấp trì trệ, các nhà máy xí nghiệp chậm đổi mới công nghệ ngày càng lạc hậu so với thế giới phương Tây trong khi tham nhũng, lãng phí đang hoành hành khắp các cơ quan công quyền kết hợp với giá dầu giảm thảm hại đã cùng nhau góp phần đánh sụp nhà nước Công – Nông đầu tiên trên thế giới cuối năm 1991.
Dầu đã được chiết xuất từ thời cổ đại, chủ yếu cho các mục đích xây dựng và y tế. Đầu thế kỷ 20, Đế quốc Nga là một trong những nhà sản xuất dầu hàng đầu thế giới, chiếm 30% thị trường. Cuộc cách mạng năm 1917, Nội chiến và quốc hữu hóa các công ty dầu mỏ đã tác động mạnh đến ngành dầu mỏ, khiến nó gần như suy sụp. Năm 1923, tình hình trong ngành dầu khí Liên Xô đã dần khôi phục và xuất khẩu dầu trở lại mức trước cách mạng. Các khu vực Kavkaz và Caspi vẫn là khu vực sản xuất dầu quan trọng nhất của đất nước và có tầm quan trọng chiến lược.
Sau chiến tranh, các vùng dầu mới được phát hiện. Khai thác các vùng lãnh thổ rộng lớn ở Tây Siberia đã được tiến hành vào những năm 1960. Sự gia tăng xuất khẩu dầu của Liên Xô dẫn đến sự sụt giảm giá dầu thế giới và là một trong những lý do cho việc thành lập Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) vào năm 1960.
THU LỢI NHUẬN KHỦNG
Vào ngày 17 tháng 10 năm 1973, toàn bộ Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ Ả Rập ( Organization of Arab Petroleum Exporting Countries / OAPEC – xin đừng nhầm lẫn với OPEC ) đã quyết định ngừng bán xăng dầu cho các nước ủng hộ Israel trong Chiến tranh Yom Kippur chống lại Ai Cập và Syria. Những quốc gia này là Canada, Nhật Bản, Hà Lan, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Lệnh cấm vận đi kèm với việc cắt giảm sản lượng hàng tháng dần dần – đến tháng 12 năm 1973, sản lượng của OAPEC chỉ còn 1/4 của tháng 9 năm 1973.
Quyết định của OAPEC đã gây ra một cuộc suy thoái kinh tế và khủng hoảng toàn cầu. Đến cuối lệnh cấm vận năm 1974, giá dầu đã tăng từ 3 đô la lên 12 đô la, và ở Mỹ, nó thậm chí còn cao hơn. Arab Saudi nhanh chóng thu gom được khối tài sản khổng lồ nhờ giá dầu cao. Tình trạng này cũng rất có lợi cho Liên Xô, một trong những nhà sản xuất dầu khí hàng đầu thế giới: thu nhập từ dầu khí chiếm hơn một nửa thu nhập quốc dân. Trong khi đó, tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi và GDP giảm 6%.
Năm 1979, Cách mạng Hồi giáo ở Iran khiến ngành sản xuất dầu Iran bị cắt giảm sản lượng nghiêm trọng, dẫn đến giá dầu toàn cầu tăng mạnh. Cuộc chiến Iran – Iraq bắt đầu vào tháng 9 năm 1980 chỉ làm tình hình thêm trầm trọng. Liên Xô kiếm được lợi nhuận khổng lồ nhờ bán dầu của nó. Nhưng vào đầu những năm 1980, giá dầu bắt đầu giảm vì mọi người đua nhau sản xuất quá mức. Giá giảm liên tục từ năm 1980 trở đi.
KINH TẾ KHỦNG HOẢNG VÀ SỤP ĐỔ
Năm 1986, thảm họa Chernobyl đã xảy ra đã giáng một đòn mạnh vào nền kinh tế, hình ảnh quốc tế và ngành năng lượng của Liên Xô. Cũng vào những năm 1980, ngành dầu khí Liên Xô bước vào thời kỳ suy tàn. Lý do là sự cạn kiệt của các giếng hiện có do khoan sâu và thiếu đầu tư vào việc thăm dò mỏ mới.
Tháng 9 năm 1985, Ả Rập Saudi bắt đầu tăng nhanh khai thác bất kể giá dầu vẫn còn thấp. Trong bốn tháng, khai thác của Saudi đã tăng từ hai triệu lên 10 triệu thùng mỗi ngày và giá giảm mạnh từ 32 USD một thùng rớt thê thảm xuống 10 USD. Đối với nền kinh tế của Liên Xô – đã quen với thu nhập từ giá dầu mỏ cao cắt cổ, đây là một đòn chí tử. Chỉ riêng năm 1986, Liên Xô đã bị thổi bay mất hơn 20 tỷ USD (khoảng 7,5% thu nhập hàng năm của Liên Xô), và nó đã bị thâm hụt ngân sách trầm trọng. Liên Xô rơi vào suy thoái sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1985-1986. Thế là quá đủ để nền kinh tế Xô Viết vốn đã không lành mạnh, sụp đổ. Năm 1986, các khoản vay bên ngoài của Liên Xô là khoảng 30 tỷ USD; đến năm 1989 họ đã đạt tới mức nợ kỷ lục 50 tỷ USD.
Dầu mỏ không hẳn là lý do duy nhất khiến Liên bang Xô Viết sụp đổ. Tuy nhiên gánh nặng quân sự từ việc duy trì đạo quân hơn 4 triệu người, đông nhất thế giới lại đang sa lầy ở Afghanistan, nền kinh tế quan liêu bao cấp trì trệ, các nhà máy xí nghiệp chậm đổi mới công nghệ ngày càng lạc hậu so với thế giới phương Tây trong khi tham nhũng, lãng phí đang hoành hành khắp các cơ quan công quyền kết hợp với giá dầu giảm thảm hại đã cùng nhau góp phần đánh sụp nhà nước Công – Nông đầu tiên trên thế giới cuối năm 1991.