Khoảng một nửa trong số chúng ta sẽ rơi vào trầm cảm tại một thời điểm nào đó trong đời, nhưng ta lại không hiểu rõ, và do đó đối phó với trầm cảm không đúng cách. Vấn đề trọng điểm của trầm cảm là ta không thật sự hiểu trầm cảm là gì, và cụ thể hơn, trầm cảm khác gì so với một số trạng thái khác mà chúng ta nắm rõ hơn, như nỗi buồn. Và bởi ta vô thức áp dụng vào tình trạng trầm cảm những giả thuyết phù hợp hơn với nỗi buồn, nên cuối cùng, ta phải chịu nhiều đau khổ hơn.
Trên bề mặt, ta thấy có nhiều điểm tương đồng giữa những người buồn và những người trầm cảm. Hai bên đều khóc; đều thu mình tránh né thế giới; đều than vãn và bơ phờ về cảm giác xa lìa cuộc sống bình thường. Nhưng có một điểm khác biệt mấu chốt giữa trầm cảm và buồn: Người buồn biết người ta buồn chuyện gì, người trầm cảm thì không.
Người buồn, chẳng vấn đề gì mà luôn có thể chỉ ra điều gì làm họ u uất. Tôi buồn vì bà tôi vừa qua đời. Hay vì tôi mới bị đuổi việc. Hay vì mấy đứa bạn xấu tính với tôi. Và – dù nghe có vẻ lạ – đây chính xác là điều mà người trầm cảm không thể làm nổi. Họ có thể khóc lóc và chìm trong ưu tư, nhưng không thể hiểu được rốt cục điều gì đã rút cạn ý nghĩa sống của họ – và họ kết luận luôn rằng thật ra cuộc sống cũng có ý nghĩa gì đâu. Họ không trầm cảm vì x hay y như cách một người buồn về x hay y. Họ đơn giản chỉ trầm cảm mà thôi.
Người trầm cảm không thể giải thích nguyên nhân cho tâm trạng của họ, do đó họ thường xuyên bị gắn cho cái mác giả tạo, dối trá hay làm quá. Bạn bè của họ, những người muốn tìm ra ý nghĩa để giải quyết vấn đề của người trầm cảm, cuối cùng thường chán nản vì không thấy đầu mối gì. Khi bị ép cung, người trầm cảm thường vin vào những lý do nhỏ nhặt và quái đản để giải thích cho tâm trạng của mình: họ có thể phàn nàn rằng đi làm thật là vô nghĩa, đằng nào 7 tỉ rưỡi năm sau Mặt Trời cũng nuốt chửng Trái Đất cơ mà. Hay họ có thể kiên quyết rằng cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì sất, vì họ mới làm rơi vỡ cái ly trên mặt sàn, và tất thảy mọi thứ đều thật vô vọng.
Đến lúc này, có khi bạn bắt đầu nhớ ra ai đó từng cho rằng nếu trầm cảm không có nguyên nhân cụ thể về mặt tâm lý học, thì vấn đề rõ ràng là ở sự mất cân bằng hóa học trong não người trầm cảm, do đó điều trị bằng thuốc sẽ hiệu quả hơn – một sáng kiến tuyệt vời trước hết là đối với ngành công nghiệp dược phẩm, và sau là đối với gia đình, nhà trường và chủ doanh nghiệp, những người đòi hỏi một giải pháp hiệu quả với cái giá phải chăng.
Nhưng cũng có một cách tiếp cận khác, tuy chậm hơn và gian khổ hơn, có thể có hiệu quả hơn nhiều xét trên dài hạn, bắt nguồn từ trị liệu tâm lý – phương pháp đã cho thấy sự thấu hiểu người trẩm cảm hơn bất cứ phương pháp nào khác. Giả thuyết cơ bản của trị liệu tâm lý là người trầm cảm không đơn giản chỉ trầm cảm chẳng vì lý do gì. Phải có lý do. Họ cực kỳ buồn khổ về một điều gì đó, mà điều gì đó này lại quá đau đớn, đến mức họ đã đẩy nó ra bên ngoài vùng ý thức của mình – mà tại đó điều gì đó bắt đầu tàn phá toàn bộ con người, gợi lên cảm giác hư vô vô biên. Với người trầm cảm, nhận ra họ thật sự đang buồn về chuyện gì là quá tàn khốc, và họ vô thức thà lựa chọn một cuộc sống như đã chết, còn hơn là hết sức đau khổ vì một điều. Trầm cảm là nỗi buồn đã quên đi nguyên nhân thực sự – quên đi bởi nhớ lại sẽ mang lại nỗi đau đớn và mất mát đến cùng cực.
Nguyên nhân thực sự có thể là gì? Có lẽ ta đã lấy sai người. Hay xu hướng tính dục của ta không thật sự giống như ta từng nghĩ. Hay ta điên tiết với một vị phụ huynh vì họ đã thờ ơ với ta trong thời thơ ấu. Để bảo vệ cho sự bình yên mong manh của tâm trí, ta đã “chọn” – dù là trong vô thức – thà là trầm cảm còn hơn nhận ra sự thật. Ta chọn sự chết lặng để bảo vệ bản thân khỏi sự thật khủng khiếp.
Thực tế còn khó khăn hơn nhiều, bởi người trầm cảm đâu hề biết họ đang không nhìn nhận đúng bản thân. Họ không hề nhận thức được lỗ hổng trên tấm lưới thấu hiểu bản thân. Hơn nữa, họ còn được những người khác dạy rằng họ “chỉ trầm cảm” mà thôi, như một người ốm về thể chất – phán quyết hết sức nhẹ nhàng và rất hấp dẫn đối với ngành công nghiệp dược phẩm cũng như đối với những người thân thiết nhưng không có hứng thú lắm với nội tâm của người bệnh.
Ta còn cần chú ý đến một điểm khác biệt nữa giữa nỗi buồn và trầm cảm. Người buồn thì đau buồn về một điều gì đó ở ngoài kia, nhưng họ không hẳn là buồn về bản thân mình, lòng tự trọng của họ không hề bị ảnh hưởng bởi nỗi đau, trong khi những người trầm cảm đặc trưng cảm thấy đau khổ về bản thân, họ chìm trong những lần tự kiểm điểm, cảm giác tội lỗi, mặc cảm tự ti và những hoang tưởng ghê tởm bản thân, mà cuối cùng, có thể dẫn đến ý nghĩ tự sát.
Trong trị liệu tâm lý, căn nguyên của những suy nghĩ bạo lực và sự căm ghét bản thân nằm ở sự tức giận gây nên bởi, mà không được hướng đến, một người khác – và vì thế quay lại hướng thẳng vào chủ thể. Cơn thịnh nộ lẽ ra cần được hướng ra ngoài, hướng đến người bạn đời lo lắng gay gắt, người đã từ chối làm xiếc với ta; hay hướng đến người phụ huynh đã làm ta bẽ mặt trong thời thơ ấu; nhưng không. Cảm xúc: “X làm tôi thất vọng kinh khủng” chuyển thành suy nghĩ khó chịu nhưng vì lý do nào đó lại dễ chịu hơn: “Tôi là một đứa khốn nạn không thể chịu nổi.” Người ta căm ghét bản thân để trốn tránh rủi ro phải căm ghét người khác.
Ta cũng cần chú ý rằng, trong nhiều trường hợp, trầm cảm được gắn với một tâm trạng trái ngược, một trạng thái hưng phấn còn được gọi là sự điên loạn hay sự hưng cảm, từ đó ta có cụm từ “rối loạn hưng cảm trầm cảm”. Chỉ nhìn bề nổi, sự hưng cảm cũng na ná niềm hạnh phúc, cũng như trầm cảm dễ bị nhầm với nỗi buồn. Nhưng điểm khác biệt mấu chốt giữa hưng cảm và hạnh phúc y hệt giữa trầm cảm và nỗi buồn, đều là sự từ chối thấu hiểu bản thân. Một người điên sẽ luôn hưng phấn, nhưng không thể đào sâu vào tâm trí của mình để thừa nhận sự thật đắng cay. Điều này lý giải cho những tính cách cơ bản của người điên: thói quen trốn tránh chính mình, huyên thuyên linh tinh không về điều gì cụ thể cả, tập luyện quá sức, làm việc không ngừng nghỉ hoặc tiêu xài vô độ – tất cả chỉ để trốn tránh nỗi đau đớn, sự tức giận cùng những mất mát chìm sâu bên trong.
Khi chẩn đoán theo cách tiếp cận này, người ta phát triển được phương pháp chữa trầm cảm. Điều mà một người trầm cảm cần nhất, là được thấu hiểu bản thân một cách sâu sắc. Để đạt được điều này, họ sẽ cần một người lắng nghe cực kỳ thông cảm và kiên nhẫn. Họ cũng có thể nên dùng thuốc (một cách hợp lý) chỉ để có thể chịu đựng được khi tâm sự với người khác, chứ không phải vì não bộ của họ có vấn đề. Giả thuyết ở đây là trong quá khứ đã có một chấn thương chưa được biết, chưa được nhìn nhận đúng đắn hay chưa được giải quyết. Họ không cần được nhắc nhở rằng cuộc sống tươi đẹp biết bao, điều họ thực sự cần là được cảm nhận và nhớ lại những đau đớn cụ thể – họ cần cảm thấy những cảm xúc của họ là hợp lý. Họ cần được tức giận, và được hướng cơn giận vào đúng đối tượng, dù khó xử đến đâu đi nữa.
Mục tiêu của việc điều trị chứng trầm cảm là chuyển từ trạng thái tuyệt vọng cùng cực thành trạng thái thương tiếc cho một sự mất mát cụ thể: hai mươi năm qua, cuộc hôn nhân, niềm hy vọng rằng cha sẽ yêu mình, sự nghiệp,… Sự tiếc thương và nỗi mất mát, dù có đau đớn thế nào, vẫn tốt hơn là khi ta để chúng làm vấy bẩn toàn bộ quan điểm của ta. Đúng là mỗi cuộc đời đều đầy trắc trở – cho nên việc một người buồn thường xuyên là hết sức bình thường. Nhưng cuộc đời cũng hết sức đẹp đẽ và tràn đầy hy vọng, tuy nhiên ta chỉ có thể cảm nhận sau khi ta đã thấu hiểu và nhìn nhận nỗi đau và sự tức giận của bản thân, đồng thời nuối tiếc những mất mát, một cách đầy đủ.
