Khoa học bắt đầu từ bao giờ?

Có lẽ là từ khi bắt đầu có những người thắc mắc về bản chất của vạn vật xung quanh và tự hỏi những hành tinh, ngôi sao to lớn trên bầu trời hình thành từ đâu. Phải, đó chính là lúc khoa học bắt đầu, dù lúc đó nó vẫn còn được gọi bằng cái tên là “triết học”.

Đã mấy ngàn năm trôi qua, nền khoa học của con người đã làm được những gì? Đại dịch Covid-19 hiện nay đã nói cho chúng ta biết về một trong những thành tựu vĩ đại nhất của khoa học: vaccine. Có thể nói câu chuyện này gắn liền với ba nhân vật nổi bật mà dùng từ của mình thì là “ông tổ của ngành thử nghiệm vaccine vượt quy trình” 

Người đầu tiên là bác sĩ Edward Jenner. Chữ “vaccine” có nguồn gốc từ “Variolae vaccinae”, nghĩa là “bệnh đậu mùa của bò” trong tiếng Latin. Năm 1788, một đợt bệnh đậu mùa quét qua Gloucestershire. Trong đợt bùng phát này, Jenner thấy những bệnh nhân của ông làm việc với gia súc và đã tiếp xúc với bệnh đậu mùa ở bò (triệu chứng nhẹ hơn đậu mùa ở người nhiều, dù cũng làm cho toàn thân con vật nổi mụn nước), không bao giờ bị bệnh đậu mùa. Ông luôn trăn trở: “Liệu có thể truyền bệnh đậu bò sang người để phòng được bệnh đậu mùa ở người không? Như thế, người ta sẽ mắc căn bệnh đậu bò không chết nhưng thoát khỏi bệnh đậu mùa chết người”.

Năm 1796, Jenner đã tiến hành một thí nghiệm trên một trong những bệnh nhân của mình. Jenner đã chiết lấy dịch từ các vết đậu bò trên cánh tay của một cô gái chăn bò rồi cấy vào cánh tay của cậu bé 8 tuổi khỏe mạnh cùng làng tên là James Phipps. Cậu bé bị sốt nhẹ nhưng sau vài ngày đã khỏe lại. 48 ngày sau, Jenner tiêm chất có chứa mầm bệnh đậu mùa vào người cậu. Theo dõi, ông thấy Phipps không hề mắc đậu mùa.

Phương pháp “tiêm ngừa” của Jenner xét theo các tiêu chuẩn y đức ngày nay là hoàn toàn sai trái. Nhưng thực tế, nhờ sự liều lĩnh của ông, con người mới thoát đại dịch đậu mùa. Jenner cũng áp dụng cho chính con trai mới 10 tháng tuổi của mình.  Năm 1798 sau khi thực hiện các xét nghiệm thành công hơn, ông đã công bố phát hiện của mình. Jenner gọi phương pháp này là “vaccination”, chính là nguồn gốc công cuộc tiêm vaccine ở người phổ biến cho đến ngày nay. Bác sĩ Edward Jenner không phải là người đầu tiên trên thế giới khám phá ra cơ chế của vaccine, nhưng khám phá của ông đã đặt nền móng cho lĩnh vực miễn dịch học, đẩy lùi được dịch bệnh đậu mùa, một trong những đại dịch nghiêm trọng của loài người. 

Người thứ hai tất nhiên không ai khác chính là Louis Pasteur và vaccine bệnh dại. Câu chuyện của Pasteur bắt đầu khi một bà mẹ đưa con trai bị chó dại cắn đến Viện Pasteur ở Pháp. Cậu bé gần như không thể đi được nữa. Pasteur đã tiêm vaccine bệnh dại mới chỉ thử nghiệm trên động vật vào cơ thể bệnh nhân này, và cậu bé đã sống.* Pasteur lúc đó vẫn chưa được cấp phép hành nghề bác sĩ, và sẽ đối mặt nguy cơ bị truy tố hình sự nếu thất bại. Thật may là ông đã thành công.

Thực sự thì người thứ ba không liên quan tới vaccine vì thứ mà ông vô tình tìm ra là loại kháng sinh nhân tạo đầu tiên. Nhưng mình vẫn xếp ông vào nhóm này vì câu chuyện của ông khá giống hai người còn lại. Đó là Gerhard Domagk.

Đầu tháng 12 năm 1935, con gái Hagegard của Domagk đã trượt chân ngã cầu thang tại nhà ở Wuppertal (Đức), và bị kim khâu đâm ngược vào tay, gãy tan thành từng mảnh. Một bác sĩ đã gắp mảnh kim gãy ra, nhưng vài ngày sau, Hildegard trở nên lờ đờ, sốt cao và nhiễm liên cầu khuẩn nghiêm trọng trên toàn cánh tay. Khi tình trạng của cô ngày càng tồi tệ, Domagk đau lòng cực độ bởi ông biết rõ rằng những bệnh nhiễm trùng như vậy sẽ dẫn tới cái chết đau đớn. Một khi vi khuẩn bắt đầu sinh sôi, không loại thuốc nào ngăn được chúng.

Ngoại trừ một loại thuốc, hay đúng hơn nó chỉ là một loại thuốc “có thể sẽ hữu dụng” trong lúc không còn cách nào khác. Đó thực ra  là một loại thuốc nhuộm công nghiệp màu đỏ mà Domagk âm thầm thử nghiệm trong phòng thí nghiệm trước đó. Ngày 20/12/1932, ông đã tiêm lượng liên cầu khuẩn cao gấp mười lần mức gây tử vong vào một lứa chuột, rồi làm tương tự với một lứa khác. Sau 90 phút, ông tiêm tiếp thuốc nhuộm công nghiệp prontosil vào lứa thứ hai. Vào đêm Giáng sinh, Domagk – lúc đó chỉ là một nhà hóa học không có gì nổi bật – đã quay lại phòng thí nghiệm của mình để xem xét. Tất cả chuột trong lứa thứ hai đều sống. Lứa đầu tiên đã chết hết. 

Thực ra thì ngay bản thân Domagk cũng không mấy tin tưởng vào loại thuốc này của mình. Sau thí nghiệm trên chuột vào năm 1932, tuy các thử nghiệm lâm sàng ​​ở người diễn ra tốt đẹp, nhưng đôi khi vẫn có tác dụng phụ nghiêm trọng (chưa kể đến chuyện nó khiến mặt bệnh nhân đỏ như tôm luộc). Domagk hiểu rất rõ muốn chế tạo được một loại thuốc tốt hơn thì ông phải sẵn sàng chấp nhận sự thật rằng bệnh nhân thử nghiệm lâm sàng có thể thiệt mạng bất cứ lúc nào; nhưng ông không đành lòng mạo hiểm với mạng sống của chính con gái mình. Nhưng khi tình trạng của Hildegard mỗi lúc một tệ hơn thì ông càng lúc càng bị ám ảnh bởi ký ức về hai chuồng chuột trong đêm Giáng sinh: một chuồng đầy những con chuột còn sống và đang mải ăn, chuồng kia thì im ắng. 

Khi bác sĩ của Hildegard tuyên bố sẽ phải cắt bỏ cánh tay cô, Domagk không thể do dự được nữa. Ông vi phạm khá nhiều quy trình để lén lấy một số liều thuốc thử nghiệm từ phòng thí nghiệm, và tiêm thứ thuốc dạng lỏng có màu máu cho con gái. Ban đầu, tình trạng của Hildegard xấu đi: cơn sốt tăng vọt và mê man trong vài tuần sau đó, nhưng cô đột nhiên khỏe lại đúng ba năm sau thí nghiệm trên chuột của cha mình. Cô vẫn sống với hai cánh tay còn nguyên vẹn.

Khoa học là vậy, đầy rẫy những bất ngờ. Nó giúp cuộc sống của con người trở nên tốt đẹp hơn dù đôi lúc… không được chắc chắn cho lắm. 

Có một câu nói mà mình rất thích: “Lịch sử của khoa học chính là khoa học.”

Trong ảnh là ca tiêm chủng đầu tiên trong lịch sử do Jenner thực hiện.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *