Trả lời: Andrey Yanovski, Nhà sử học nghiệp dư tự phong.
Câu hỏi tuyệt vời, cảm ơn bạn!
Tôi cho rằng chủ đề này thường không được nhắc đến nhiều và muốn cảm ơn bạn vì đã cho tôi cơ hội để nói về nó và tôi chắc rằng những ai hứng thú tìm hiểu về lịch sử thế chiến 2 sẽ có được một vài thông tin hữu ích.
Vậy, làm thế nào hồng quân có thể hồi phục được sau những thất bại năm 1941? Hay, như là một hệ quả, làm sao mà quân Đức lại có thể dùng hết quân nhanh hơn Liên Xô, khi mà họ có quân số lớn hơn tại thời điểm bắt đầu cuộc chiến và đặc biệt là trong giai đoạn 1942 – 43 và hy sinh ít hơn trên chiến trường (chính xác là theo tỷ lệ 1:3)?
Liên Xô đã khôi phục quân số theo những cách sau:
Nhập ngũ bắt buộc. Tất nhiên rất nhiều binh lính là đến từ số lính mới được tuyển mộ từ dân thường. Nguồn tài nguyên này được tận dụng tối đa – cho đến giữa năm 1942 thì tất cả đàn ông khoẻ mạnh trong độ tuổi từ 18 đến 50 đều được tuyển mộ và gửi ra mặt trận. Nửa cuối năm 1942, thì các chính uỷ viên bắt đầu tuyển thêm các thiếu niên 17 tuổi đang đi học (là một việc làm trái với hiến pháp, do tuổi nhập ngũ là 18, dù tất cả đều tình nguyện. Ông nội tôi cũng nằm trong số được tuyển mộ năm 1942 cùng với tất cả những bạn học của mình). Tuy nhiên ở thời điểm đó thì cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất đã qua – khác với 1941, nhưng thiếu niên 17 tuổi này không phải ra mặt trận chỉ sau 1 tuần huấn luyện cơ bản. Họ được gửi đi huấn luyện trong khoảng 1 năm (với rất ít lương thực). Khi kết thúc, thì tất cả đã 18 hoặc 19 tuổi, và có thể tham gia chiến đấu. Nhưng lúc đó là cuối 1943 và quân số khi đó thậm chí còn nhiều hơn năm ngoái khi họ mới nhập ngũ. Nên phần lớn vẫn chưa được gửi ra mặt trận, họ được tập hợp lại thành các đơn vị dự phòng ở Stavka. Tại đây, họ tiếp tục được huấn luyện, chia ra thành các trung đội và đại đội – một ưu đãi mà những đồng đội trẻ hơn họ không bao giờ có. Những đơn vị này ra trận lần đầu tiên năm 1944.
Vậy nếu số lính mới được bổ sung nhiều hơn không đáng kể vào năm 1942 – 43, do phần lớn được gửi đi huấn luyện thay vì ra thẳng mặt trận, thì hồng quân đã bù đắp bằng cách nào?
Bệnh viện. Những con số mà chúng ta thường thấy trong các báo cáo và phân tích trong mục “thiệt hại” thường bao gồm hy sinh, bị thương, bị bỏ lại, bệnh tật và mất tích. Tỷ lệ trung bình của việc bị thương đến mức hy sinh trong thế chiến 2 nằm ở mức 1 người chết trong số 3 người bị thương. Trong số các đơn vị hồng quân thì quân y được tổ chức bài bản nhất – dù còn nhiều bất cập, nhưng ở thời điểm đó là rất hiệu quả. Tỷ lệ quay lại mặt trận từ các bệnh viện Liên Xô trong chiến tranh là 72.3% cho thương binh và 90% cho bệnh binh. Năm 1943, con số này đạt mức 85% – là một kết quả đáng nể! Tỷ lệ trung bình chết/ bị thương là 72.3% chiếm tổng số 50% thiệt hại đã quay lại chiến trường! Đây là một con số khổng lồ – tính trên hàng triệu người lính đã bị “thương vong” năm 1941, hàng trăm ngàn đã quay trở lại chiến đấu vào năm 1942. Trong thời gian diễn ra chiến tranh, các bệnh viện của hồng quân (RKKA) đã giúp 17 triệu người lính quay lại mặt trận.
Có một sự khác biệt rất lớn giữa thuốc của Liên Xô và Đức – thuốc của Liên Xô tập trung vào các chấn thương nhẹ, các nguồn lực được tập trung vào các bệnh nhân có hy vọng quay lại mặt trận, thuốc của Đức thì lại tập trung vào các chấn thương nặng, cố gắng cứu mạng nhiều người nhất có thể, thậm chí là dù họ sẽ bị tàn tật hoặc các bệnh nhân ít nghiêm trọng hơn sẽ phải hồi phục lâu hơn. Kết quả là dù các bệnh nhân nặng và bị tàn tật (mất các chi, tổn thương cột sống nghiêm trọng…) của hồng quân phải chịu hy sinh nhiều hơn, nhưng các bệnh nhân nhẹ và trung bình có thể hồi phục nhanh hơn. Tỷ lệ hy sinh và xuất viện cao hơn nên các nguồn lực nhanh chóng được chuyển sang dùng cho các bệnh nhân mới, tạo ra một vòng lặp với phản hồi tích cực. Tỷ lệ bệnh nhân quay lại của hồng quân nhiều hơn của Đức gần 50% (~50% ở Đức, 72.3% ở Liên Xô). Từ cuối năm 1942, do tỷ lệ quay lại từ các bệnh viện tăng và thiệt hại về quân số giảm đi (so với 1941) đã cho phép lính mới có thể có được 1 năm huấn luyện.
Một sự thật thú vị nữa là những thương bệnh binh nằm trong các bệnh viện của hồng quân là những người được ăn uống tử tế nhất ở Liên Xô. Một “khẩu phần” trong bệnh viện thường ít hơn khẩu phần ở chiến trường – 2682g so với 3054g, nhưng nó cân bằng hơn, bao gồm sữa, nước hoa quả, trái cây và cafe. Thêm vào đó các bệnh nhân “đang hồi phục” – những người mà tính mạng không còn bị đe doạ, được nhận thêm một khẩu phần bánh mì 800g, khiến họ được xếp vào một trong số ít những người được ăn uống đầy đủ trong thời chiến ở Liên Xô. Để so sánh thì các thương bệnh binh Đức chỉ được nhận ½ khẩu phần so với các đồng đội ở ngoài chiến tuyến.
Nguyên soái Rokossovski đã phát biểu sau khi chiến tranh kết thúc “Chính các thương binh là người đã mang lại chiến thắng…”
Tái nhập ngũ.
Một số lượng lớn thiệt hại về quân số nằm ở những cuộc bao vây lớn khi mà toàn bộ sư đoàn, đơn vị và phòng tuyến bị xoá khỏi bản đồ. Hàng triệu người lính bị giết và bắt giữ bởi quân Đức trong những “chiếc túi” này. Tuy nhiên còn có một số % đáng kể đã bị lạc, mất vũ khí, giấy tờ và quân phục, nhưng họ vẫn sống sót và chạy về phía Đông. Tỷ lệ quay lại từ những cuộc bao vây này không giống nhau, nhưng là một con số đáng kể và trở thành một nguồn nhân lực rất lớn, đặc biệt là trong cuộc khủng hoảng năm 1941 và một phần năm 1942. Dù nhìn vào toàn cảnh cuộc chiến, thì con số này có vẻ như không đáng kể, cộng thêm với việc nhiều người bị giữ trong các trại tập trung trong thời điểm mà quân đội cần họ nhất, thì những người này vẫn có một vai trò quan trọng trong việc khôi phục lại quân số cho Liên Xô. Ví dụ như sau trận Kiev, 677,000 lính Xô Viết đã tham chiến trong vòng hơn 1 tháng, và Goebblels đã bắt được khoảng 665,000 tù binh, thì 150,000 trong số này sau đó đã quay lại chiến trường. Nếu chúng ta áp dụng cùng tỷ lệ này cho những cuộc vây hãm lớn khác của năm 1941, thì có khoảng hơn nửa triệu binh lính được tính vào mục “thiệt hại” đã quay lại hàng ngũ. Nhiều người dù không thể quay lại chiến trường đã trở thành chủ chốt trong lực lượng du kích địa phương, đóng vai trò quan trọng trong việc phá rối quân Đức và gia nhập lại hồng quân sau đó – khi họ hành quân qua các vùng có du kích. Phần lớn đều quay lại thẳng về chiến trường, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của chiến tranh, khi mà quân số còn ít và không có ai thắc mắc về xuất thân của người khác, miễn là họ chịu cầm súng và chiến đấu. Nhưng từ năm 1942 thì các các binh sĩ quay lại dọc đường và được giải phóng khỏi các trại tù binh đã được tính toán và phải trải qua các trại thanh lọc NKVD (SMERSH). Tổng số các binh sĩ được cấp phép ra khỏi các trại này là 354,592 người, phần lớn đã quay lại tiếp tục chiến đấu. Khoảng 30k người được xuất ngũ và chuyển sang làm công nhân, 6k người không còn phù hợp để chiến đấu được chuyển sang làm lính gác và công tác hậu cần, 11.5k người bị bắt giữ do tình nghi phạm pháp hoặc làm gián điệp và có khoảng 5k người chết – tổng cộng tất cả là khoảng 50k người. 300k người còn lại được quay lại quân ngũ – là một con số tiếp viện đáng kể. Từ tháng 11/1944, các trại thanh lọc đã bị giải tán và các tù binh khi được phóng thích sẽ được tái phân bổ ngay tại chỗ.
