Thứ hai, ngày 21/07/2025 18:21 GMT+7
Thùy Anh Thứ hai, ngày 21/07/2025 18:21 GMT+7
Công cuộc giảm nghèo tại Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng, đặc biệt tại các “vùng lõi nghèo” – nơi vốn là những địa bàn khó khăn nhất. Tuy nhiên, hành trình phía trước vẫn còn nhiều thách thức, đòi hỏi một tư duy và cách tiếp cận mới.
Mới đây, ngày 17/7, Báo Nông thôn ngày nay/báo điện tử Dân Việt đã tổ chức Tọa đàm “Giảm nghèo vùng lõi – Khó khăn và giải pháp”. Qua tọa đàm, các chuyên gia đã cùng nhau phân tích sâu sắc những rào cản và đề xuất các hướng đi đột phá cho giảm nghèo bền vững giai đoạn tới. Tham gia tọa đàm có ông Nguyễn Lê Bình – Phó chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo và ông Đặng Đình Ngọc – Chuyên gia của Tổ chức Cake.
Những con số biết nói trong công cuộc giảm nghèo bền vững
Những nỗ lực không ngừng nghỉ của Đảng và Nhà nước trong công tác giảm nghèo đã mang lại kết quả đáng ghi nhận. Báo cáo của Văn phòng quốc gia giảm nghèo bền vững cho thấy, sau gần 5 năm, tỷ lệ hộ nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 5,2% xuống chỉ còn 1,93% vào cuối năm 2024.
Đặc biệt, tại các “vùng lõi nghèo” – bao gồm các huyện nghèo và xã đặc biệt khó khăn – nơi công tác giảm nghèo luôn là bài toán nan giải, những con số còn ấn tượng hơn. Tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo đã giảm một cách ngoạn mục, từ gần 45% xuống còn 24,86%. Tương tự, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số cũng giảm còn 12,55%, vượt xa chỉ tiêu đề ra. Những con số biết nói này là minh chứng rõ ràng cho sự thành công của một giai đoạn tập trung nguồn lực quyết liệt vào những vùng đặc biệt khó khăn, theo đúng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
Dù đạt được nhiều thành tựu, Việt Nam vẫn còn gần 100 huyện nghèo và 2.000 xã đặc biệt khó khăn. Theo số liệu hiện tại, chúng ta xác định có 74 huyện nghèo, 54 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, cùng gần 2.000 xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Đây chính là những địa bàn mà công tác giảm nghèo trong giai đoạn mới cần tập trung mọi nguồn lực.
Theo các chuyên gia, giảm nghèo ở vùng lõi là công việc khó khăn nhất, đòi hỏi sự kiên trì và bền bỉ. Những thách thức này đến từ nhiều yếu tố đan xen, tạo thành một rào cản phức tạp.
Một trong những khó khăn lớn nhất là điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và cơ sở hạ tầng yếu kém. Ông Đặng Đình Ngọc, chuyên gia giảm nghèo, chỉ ra rằng vùng lõi nghèo thường gắn liền với người dân tộc thiểu số ở các vùng rất cao, xa, nơi cơ sở hạ tầng như đường sá, điện, thông tin liên lạc còn thiếu thốn. Ông Bình cũng đồng tình khi cho rằng: “Biến đổi khí hậu, bão lũ có thể xóa sạch những thành tựu đầu tư, buộc chúng ta phải làm lại từ đầu”. Thực tế cho thấy, có những con đường vừa được làm xong hôm trước, chỉ sau một trận mưa hôm sau đã bị hư hỏng, cô lập hoàn toàn cộng đồng.

Ông Nguyễn Lê Bình – Phó chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo và ông Đặng Đình Ngọc – Chuyên gia của Tổ chức Cake tham gia tọa đàm (từ trái qua phải). Ảnh: DV
Thứ hai là những rào cản về kinh tế – xã hội. Người dân ở vùng lõi nghèo có khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản rất hạn chế. Các chương trình can thiệp hỗ trợ sinh kế đôi khi không bền vững, khiến người dân dễ tái nghèo. “Ví dụ, họ trồng cây nhưng không có thị trường tiêu thụ sản phẩm”, ông Ngọc phân tích. Tình trạng thiếu hụt lao động hoặc không có thị trường lao động tại chỗ cũng khiến các can thiệp không tạo ra nhiều giá trị gia tăng.
Thứ ba, yếu tố con người và thể chế cũng là một thách thức không nhỏ. Về phía người dân, nhận thức về phát triển sản xuất, nâng cao năng lực bản thân còn hạn chế, đặc biệt ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn tồn tại rào cản ngôn ngữ. Về phía bộ máy quản lý, ông Bình cho biết đội ngũ cán bộ ở vùng khó khăn cũng gặp nhiều thách thức trong việc tiếp cận và triển khai chính sách. Sắp tới, khi sắp xếp lại chính quyền 2 cấp, bộ máy hành chính sẽ tinh gọn hơn, nhưng cũng tạo ra khó khăn mới khi một cán bộ xã có thể phải phụ trách nhiều lĩnh vực hơn trên một địa bàn rộng lớn hơn.
Cuối cùng, bản thân chính sách cũng cần liên tục được điều chỉnh. Ông Bình chia sẻ: “Mỗi khi chuẩn nghèo được nâng lên, một bộ phận người dân lại tái nghèo. Vì vậy, chúng ta phải xác định rằng công tác giảm nghèo là một quá trình liên tục, chia sẻ thành quả phát triển chung của đất nước với những vùng còn khó khăn”.
Giải pháp cho giai đoạn mới – Trao quyền và kiến tạo hạnh phúc
Đối mặt với những thách thức phức tạp, các chuyên gia cho rằng giai đoạn mới cần một bước chuyển mình mạnh mẽ trong tư duy và hành động, từ việc hỗ trợ toàn diện đến trao quyền thực chất cho người dân, với đích đến cuối cùng là hạnh phúc.
Theo ông Đặng Đình Ngọc, chìa khóa để giảm nghèo bền vững nằm ở việc trao quyền và nâng cao vai trò “sở hữu” của người dân trong chính các hoạt động dành cho họ. Ông nhấn mạnh: “Dù tác động như thế nào cũng cần để người nghèo tự tin cảm thấy có sự sở hữu. Nếu họ không thấy vai trò của mình trong một hoạt động, họ sẽ không muốn tham gia”.
Để làm được điều này, cần có những chính sách giảm nghèo toàn diện hơn, được “may đo” cho từng hoàn cảnh cụ thể. Ông Ngọc chia sẻ một cách hình ảnh:
“Với những hộ còn khả năng lao động ta hỗ trợ tiếp cận sinh kế, với những hộ mất khả năng lao động ta buộc phải trao con cá. Kể cả khi cho cần câu, cũng cần hướng dẫn cách câu, chỗ ngồi câu… Vì vậy, người làm công tác giảm nghèo trước hết phải có tâm và phải hiểu biết sâu sắc về từng hộ dân mình đang giúp đỡ, vì mỗi hộ có một đặc thù riêng”.
Đặc biệt, cần xây dựng những mô hình giảm nghèo gắn với sự trao quyền thực sự cho người dân, để họ tự quyết định và tham gia, từ đó tự tin vươn lên thoát nghèo”, ông Ngọc nói.

Từ kinh nghiệm thực tiễn, ông Đặng Đình Ngọc đã kiến nghị 3 giải pháp đột phá cho giai đoạn 2026-2030:
“Đầu tiên là thay đổi tư duy về phân loại vùng: Cách tiếp cận hiện nay khi định nghĩa “xã dân tộc thiểu số”, “tỉnh dân tộc thiểu số” có thể dẫn đến đầu tư dàn trải, không tập trung vào những vùng lõi khó khăn nhất; thứ 2 là chú trọng phân quyền, trao quyền thực chất và dứt điểm cho địa phương để họ thực sự được quyết định; thứ 3 là làm rõ cơ chế phân bổ ngân sách, theo đó cần có tiêu chí rõ ràng về phân bổ ngân sách cho các địa phương, đặc biệt là những tỉnh phải nhận hỗ trợ từ Trung ương, để đảm bảo công bằng và hiệu quả”.
Bên cạnh việc trao quyền, tầm nhìn cho giai đoạn mới cũng được nâng lên một tầm cao hơn. Ông Nguyễn Lê Bình cho biết, Trung ương đang tính đến việc sáp nhập hai Chương trình mục tiêu quốc gia lớn là Giảm nghèo bền vững và Xây dựng Nông thôn mới thành một để giải quyết sự chồng chéo, tập trung nguồn lực hiệu quả hơn. Các giải pháp vẫn sẽ tiếp tục quan tâm đến sinh kế, nâng cao thu nhập và năng lực cho người dân thông qua giáo dục, đào tạo nghề.
Tuy nhiên, điểm nhấn đặc biệt và cũng là mục tiêu cuối cùng của hành trình này được ông Bình gói gọn trong hai chữ “hạnh phúc”.
“Trong giai đoạn tới (2026-2030), tôi nghĩ chương trình sẽ không chỉ hướng đến giảm nghèo mà còn hướng đến hạnh phúc của người dân. Khi người dân cảm thấy hạnh phúc, gắn bó với cộng đồng, họ sẽ có động lực để tự vươn lên. Điều này bao hàm cả việc giải quyết các vấn đề về vật chất, văn hóa và tâm lý”, ông Bình nói thêm.
Đây là một bước chuyển tư duy quan trọng, khẳng định rằng giảm nghèo không chỉ là những con số thống kê về thu nhập. Đó là một quá trình kiến tạo nên một cuộc sống mà ở đó, người dân cảm thấy được tôn trọng, được trao quyền, được an toàn và có cơ hội phát triển toàn diện cả về vật chất lẫn tinh thần. Như vậy, giai đoạn 2026-2030 sẽ không chỉ dừng lại ở việc giúp người dân thoát nghèo, mà còn hướng tới một mục tiêu cao hơn: kiến tạo một cuộc sống hạnh phúc, bền vững.