ĐƯỜNG TÌNH DUYÊN LẬN ĐẬN CỦA BÀ CHÚA KIM CƯƠNG TRỊNH THỊ NGỌC TRÚC

Người xưa vẫn hay nói: “Ép dầu ép mỡ chứ ai nỡ ép duyên”, ấy vậy mà trong chốn lầu rồng điện ngọc, chuyện ép duyên nào đâu phải sự lạ? Phận má hồng sinh ra nơi lầu son gác tía, liệu mấy ai có thể theo đuổi được tơ duyên mà mình hằng mong muốn? 

Cứ nghĩ rằng duyên là do ông Tơ bà Nguyệt se kết mà thành, nhưng thật ra, là ông Tơ bà Nguyệt hay là do những bậc trưởng bối tay nắm đại quyền sắp xếp đây?

Trong sử Việt vốn không thiếu chuyện ép duyên, nhưng đặc biệt hơn cả vẫn là sự kiện Thanh Đô vương Trịnh Tráng ép nữ nhi của mình là Trịnh Thị Ngọc Trúc phải lấy vua Lê Thần Tông.

“Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên/Đường tình duyên lắm điều buồn tủi”. Thuở đầu, Trịnh Tráng gả quận chúa Ngọc Trúc cho Cường quận công Lê Trụ. Nàng khi đó là quận chúa thân phận cao quý, mẹ là con gái của Đoan quận công Nguyễn Hoàng, cha là Trịnh vương trong tay nắm quyền sinh sát vạn người. Mệnh cha khó trái, nàng khoác lên người hỉ phục, ngồi kiệu hoa gả về phủ Cường quận công.  

Những tưởng uyên ương từ đây đã vui vầy sớm tối, tiếc rằng số mệnh chỉ cho nàng và Lê Trụ đi cùng nhau một đoạn ngắn ngủi trên con đường nhân sinh. Lê Trụ vì có lòng tư tâm “can tội bắc thang vào điện mưu việc phản nghịch” mà bị Trịnh Tráng xử tội chết. Màu đỏ rực của xác pháo hoa trên khắp đường đi đón dâu năm đó giờ trở thành màu máu khắp người chồng nàng. Ngọc Trúc trở thành góa phụ. Nàng chỉ có thể ngoảnh mặt nhìn người chồng đầu ấp tay gối bị cha mình tống vào ngục, che giấu sự đau đớn vào lòng. 

Ngọc Trúc làm góa phụ không được bao lâu thì cha nàng lại thay ông Tơ bà Nguyệt sắp xếp cho nàng mối hôn sự mới. Trong khi nàng vẫn còn đương bàng hoàng, bá quan văn võ trong triều thì không tán thành, Thần Tông Lê Duy Kỳ cho kiệu loan rước nàng vào cung làm mẫu nghi thiên hạ. 

Năm tháng như nước chảy, nàng giờ đây đã có tuổi, lại đội phượng quan nắm lấy tay của người trẻ tuổi mặc long bào kia mà bước vào cửa hoàng cung. Ngày đại hôn, trời mưa dầm không ngớt, như khóc cho chính số phận “kim chi ngọc diệp” nàng mang trên mình. 

Ở trong chốn cung đình, Ngọc Trúc dần dần nhận ra Thần Tông là người chỉ thích bình ổn không màng tranh đấu. Đó là người cam tâm làm một ông vua chỉ có danh hão, là người đồng ý lấy một người đã từng góa chồng như nàng theo lệnh Trịnh vương, cũng là người tặc lưỡi nhẹ nhàng trả lời quan cận thần về quyết định đón nàng vào nơi cung thất. Chính nàng cũng biết, chuyện cha gả mình vào cung khiến các quan đại thần chỉ có thể ngậm bồ hòn làm ngọt. Nhân luân ở đâu khi một ông vua đang tuổi xuân phải đi lấy một người phụ nữ trải qua bốn lần sinh nở làm chính thất đây? Hơn hết, người đó lại là bác dâu của mình?

Ngọc Trúc ngồi ghế chủ ở hậu cung, vừa quản công việc vừa nghiên cứu Phật học. Đức vua và Hoàng hậu tương kính như tân, hòa thuận làm gương cho kẻ dưới. Nàng không quản chuyện vua làm gì ở hậu cung, có mấy người thiếp thất, bởi nàng biết mình không thể giành lấy được tình yêu từ ngài vua trẻ tuổi. Nàng và Thần Tông dẫu mang danh vợ chồng nhưng mỗi người lại có con đường riêng, cuộc sống riêng của mình. 

Cứ ngỡ cuộc đời Ngọc Trúc sẽ chỉ bình lặng mà trôi qua như thế cho đến khi nàng gặp được Nguyễn Thị Duệ trong buổi dạ yến. Đều là người đã trải qua sóng gió cuộc đời, Nguyễn Thị Duệ hiểu được nỗi lòng của nàng cũng như những lý luận Phật học sâu sắc mà nàng tâm đắc. Những ngày nàng đi thăm chùa miếu, ngắm cảnh sông dài đều có Nguyễn Thị Duệ theo bồi. Là người sùng Phật, nàng thường quyên góp của cải xây và tu bổ chùa chiền, hằng tháng đều trích tiền tiêu dùng của mình để gửi nhà chùa làm tiền hương hỏa. Ngả Phật từ bi là điểm dừng chân cuối cho cánh lục bình trải qua đời dâu bể như nàng.

Ngọc Trúc dùng hết những năm tháng còn lại để nghiên cứu Phật học và sáng tác ra một bộ từ điển tiếng Nôm. Nàng vốn không tha thiết công danh lợi lộc, cũng bởi chữ danh lợi mà nàng mất đi Lê Trụ. Ngồi ở ngôi cao với nàng vốn không có mấy ý nghĩa, chẳng qua là thêm ưu phiền mà thôi. Chỉ trách người đời cứ luôn theo đuổi danh lợi, lại không biết điểm dừng, kết quả hại thân mình.  

Trong vạn lý sơn hà tuế nguyệt cùng thiên địa xa xăm ấy, Ngọc Trúc chỉ cảm thấy thật sự bình yên trong những ngày ký thác tâm mình nơi cửa Phật. Dẫu cho sinh ra là thân lá ngọc cành vàng, gia thế hai họ hiển vinh, nàng chưa bao giờ thực sự thấy hạnh phúc. Từ nhỏ đã sống theo sự sắp đặt của cha mẹ, đến tuổi cập kê thì được gả cho Lê Trụ, đến khi Lê Trụ chết vì tội mưu phản lại đem gả nàng cho Thần Tông dù việc đó trái với nhân luân. Có thể nói, nàng chưa bao giờ được sống theo ý mình. 

Nữ nhi Trịnh gia hầu như đã có sẵn con đường cuộc đời ngay từ khi mới sinh ra. Ngọc Trúc cũng chỉ là một người con gái giống như thế, hai lần mặc hỉ phục bước lên kiệu hoa và nhiều lần nuốt nước mắt vào lòng để đặt chữ hiếu lên đầu. Kim ngân phú quý vinh hoa, sao có thể sánh được với việc sống theo ý mình? Hồng nhan tự cổ chí kim vốn dĩ như phấn mặc đăng trường, ai biết được trong lòng các nàng có mấy phần vui vẻ tự nguyện đây?

Danh phận cao quý, cẩm y ngọc thực rồi cũng sẽ theo tuế nguyệt mà chôn vùi, phấn mặc điểm trang rồi cũng sẽ bị xuân thu làm phai nhạt. Chặng cuối của nhân sinh, Ngọc Trúc nương nhờ cửa Phật và làm những điều nàng hằng ấp ủ. Nàng đã dùng hơn nửa đời mình để đặt chữ hiếu làm đầu, che giấu bao buồn tủi vào lòng mà làm mẫu nghi thiên hạ. Bỏ phượng quan xuống, nàng cũng chỉ là một nữ tử bình thường luôn mong cầu hạnh phúc mà thôi. Dù thế nhân tán thưởng bởi sự uyên bác trong lý luận Phật học hay những sự cống hiến của nàng trong việc phổ thông hóa Hán Nôm, thì với nàng đều không quan trọng. Đến khi nhân sinh khép lại, tất cả rồi sẽ hóa vô vi.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *