Thứ sáu, ngày 18/04/2025 19:41 GMT+7
Tào Nga Thứ sáu, ngày 18/04/2025 19:41 GMT+7
Quảng Bình được nhắc đến là vùng đất giàu lịch sử, văn hóa và truyền thống hiếu học. Nơi đây có những người con vang danh khiến bao người nể phục.
Dự kiến sáp nhập Quảng Bình, Quảng Trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết 60-NQ/TW ngày 12/4/2025 của Hội nghị lần thứ 11 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII. Theo đó, hợp nhất tỉnh Quảng Bình và tỉnh Quảng Trị, lấy tên là tỉnh Quảng Trị, trung tâm chính trị – hành chính đặt tại tỉnh Quảng Bình hiện nay.
Phía bắc Quảng Bình giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía tây giáp tỉnh Khammuane, tỉnh Savannakhet, Lào với đường biên giới 201,87km, phía đông giáp Biển Đông.

Trước đó, ngày 20/9/1975, Quảng Bình với Quảng Trị và Thừa Thiên sáp nhập thành tỉnh Bình – Trị – Thiên, lấy thành phố Huế làm tỉnh lị. Ngày 1/7/1989 Trung ương Đảng đã có quyết định tách 3 tỉnh về địa giới cũ.
Quảng Bình là một vùng đất giàu truyền thống lịch sử và văn hóa, đã sản sinh ra nhiều danh nhân kiệt xuất, đóng góp to lớn cho đất nước qua các thời kỳ.
Trạng nguyên thời kỳ đầu của khoa bảng Quảng Bình là Trương Xán khi mới 29 tuổi và tiếp theo thời kỳ nào cũng có người có tên trong danh lục khoa bảng Việt Nam. Đã có gần 50 người đỗ đại khoa, trong đó có 1 trạng nguyên, 27 tiến sĩ, 19 phó bảng và hàng trăm người đỗ cử nhân ở đây. Trong danh sách 49 vị đại khoa ghi nhận là được có nhiều gia đình, dòng họ có nhiều người đỗ đạt; Khai quốc công thần như Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, cụ Huỳnh Côn; các thế gia vọng tộc như họ Trần Đăng, họ Nguyễn Hữu, là họ Nguyễn Duy, họ Trần Khắc… Quảng Bình cũng là cái nôi lớn của văn hào đi tiên phong trong nhiều lĩnh vực, như Lưu Trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Quách Xuân Kỳ…
Dưới đây là một số người con đã làm vang danh Quảng Bình:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2013)
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tên khai sinh Võ Giáp, bí danh là Văn, sinh ngày 25/8/1911 ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho nghèo, giàu lòng yêu nước.
Cuộc đời hơn 80 năm hoạt động cách mạng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gắn liền với những mốc son lịch sử trọng đại đánh dấu quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Với tư duy sắc bén, tầm nhìn chiến lược, kinh nghiệm thực tiễn sâu sắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có nhiều công lao, đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Cùng với những cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, Đại tướng là tấm gương mẫu mực về đạo đức, nhân cách của người chiến sĩ cộng sản, cống hiến hết mình vì nước, vì dân.
Võ Trọng Bình (1808-1898)
Võ Trọng Bình là người làng Mỹ Lộc, huyện Phong Đăng (nay huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng Bình. Ông đỗ cử nhân năm 1834. Ông từng trải qua các chức: Phủ Doãn Thừa Thiên, Tuần Phủ Hưng Yên, Tổng Đốc Ninh Thái (Ninh Bình và Thái Bình), Kinh lược Ninh Thái Lạng Bằng, có công dẹp thổ phỉ, được tặng Hiệp Biện đại học sĩ, sung làm Hiệp Thống Bắc Kỳ Quân vụ.
Năm 1874, Nghệ An có loạn, ông được điều vào làm Tổng đốc, rồi ra làm Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc, sau đó đổi qua làm Tổng đốc Định An. Năm 1883, Pháp đánh các tỉnh miền Bắc, thành ông bị thất thủ, ông bị cách chức, năm sau (1884) ông được bổ dụng làm Thương biện tỉnh vụ Nghệ An, sau đó vào làm Thượng thư Bộ Hộ. Năm 1885, ông về hưu, đến năm 1898, ông mất tại quê nhà, được truy thọ hàm Biện Đại học Sĩ. Võ Trọng Bình nổi tiếng là người thanh liêm, chính trực trong hơn 50 năm làm quan. Ông luôn luôn là người trong sáng, đáng nêu gương cho mọi thời đại.
Trạng Nguyên Trương Xán
Trương Xán là Trại Trạng nguyên, sinh năm 1227 quê ở xã Hoành Bồ, huyện Quảng Trạch, châu Bố Chính (nay là Quảng Trạch – Quảng Bình). Tuy nhiên sách Đại Việt Sử ký toàn thư lại chép rằng: Trương Xán người huyện Tế Giang (lộ Bắc Giang). Ông đỗ khoa Bính Thìn (1256), là Trạng nguyên thứ 3 trong lịch sử khoa cử của nước ta. Ông làm quan đến chức Hàn lâm học sĩ.
Vốn là người say mê vẻ đẹp của thiên nhiên và thường tìm thấy trong các hiện tượng thiên nhiên nên ông có những triết lý sâu sắc về đời người. Một số làng chài đã lập đền thờ ông coi như vị Phúc thần chuyên cứu giúp những người đi biển.
Lê Mô Khởi (1836-1895)
Lê Mô Khởi, người làng Cao Lao Hạ, nay là xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch. Ông còn có tên là Lê Tuấn và Lê Ngọc Thành. Cụ thân sinh là ông Lê Văn Giân, đổ cử nhân khoa Nhâm Thìn, triệu vua Thiệu Trị thứ 2, (1842), làm một chức quan nhỏ (tri huyện) nhưng nổi tiếng thanh liêm.
Lê Mô Khởi, hồi nhỏ học với bố. Năm 15 tuổi đã thông thạo thi thư, văn, truyện, kinh phú. Đi thi, lấy tên là Lê Ngọc Thành, đổ cử nhân khoa Tân Dậu, triệu vua Tự Đức thứ 14 (1861). Ra làm quan, lấy tên là Lê Mô Khởi.
Lúc đầu ông được bổ đi Trị nhiệm tỉnh Bình Định, sau về chấm thi ở tỉnh Thanh Hoá, sau về làm Án sát tỉnh Hải Dương… Lúc này tình hình đất nước đang gặp nhiều khó khăn, các toán phỉ người Hán thường tràn qua cướp phá các tỉnh biên giới phía Bắc, thường được gọi là giặc cờ đen, cờ vàng. Ông đã tham gia nhiều đợt chống phỉ. Là một quan văn nhưng trấn trị ở vùng trọng yếu nên ông phải kiêm làm võ tướng xông pha nơi lửa đạn để ổn định an ninh, nội địa và bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân.