Địa vị chữ quốc ngữ và chữ Pháp hồi đầu thế kỷ XX
(Nguyễn Thị Chân Quỳnh)
Sau khi chinh phục nước ta bằng vũ lực, Pháp nghiên cứu phép cai trị của “dân bản xứ”, nhận thấy quyền hành nằm cả trong tay vua quan. Câu hỏi họ đặt ra lúc ấy là nên giữ hay nên bỏ chế độ cũ ? Sau khi thử đi tính lại, họ quyết định duy trì trật tự có sẵn, chỉ “chặt bớt tay chân” nhà vua để giảm sức phản kháng của triều đình bằng cách tước hết quyền hành của các quan, biến bọn này thành những người thừa hành mệnh lệnh của họ, do đó Khoa cử được tiếp tục tổ chức. Để tỏ ra “nước mẹ” vẫn quan tâm đến vấn đề khai hoá “dân bản xứ” và cũng thể theo lời yêu cầu của một số trí thức của ta, nhà nước Bảo hộ đưa ra những đề nghị cải cách Khoa cử.
Theo Bằng Vũ (Thế kỷ 21, số 14) thì nghị định cải cách do Toàn quyền Doumer ký từ 6/6/1898. Tôi chưa được đọc nghị định này song tôi nghĩ chính nó là cha đẻ ra đạo dụ Thành Thái năm thứ 18 (1906) bắt các Thí sinh phải thi môn chữ Pháp kể từ 1903 theo Doumer, kể từ 1907 theo Thành Thái. Tại sao phải đợi 8 năm triều đình ta mới “biến” được nghị định của Doumer thành sắc dụ ? – Có thể do sĩ phu nhao nhao phản đối và triều đình cũng nhận thấy khó lòng thực hiện nổi chính lệnh của Doumer trong một thời gian quá ngắn cho nên sau khi bàn ra tán vào, triều đình mới quyết định, năm 1906, thành lập một Hội đồng Học vụ để quy định phép học và phép thi, bắt đầu áp dụng từ năm 1907. Như thế có nghĩa là những khoa thi Hương năm 1900, 1903, 1906 vẫn được tổ chức y như cũ, chữ Hán vẫn chiếm địa vị độc tôn.
Về phép thi Hương, Hội đồng quyết định như sau :
– Kỳ 1 : (cũng gọi là trường 1) : 5 đạo văn sách hỏi về luân lý, sử, địa, luật, chính trị, viết bằng chữ Hán.
– Kỳ 2 : 3 bài luận quốc ngữ (văn, sử, địa, cách trí).
– Kỳ 3 : 2 bài chữ Pháp (1 bài chữ Pháp dịch ra quốc ngữ, 1 bài chữ Hán dịch ra chữ Pháp).
– Kỳ 4: Phúc hạch : 1 luận chữ Hán, 1 luận chữ quốc ngữ, 1 bài chữ Pháp dịch ra chữ Hán.
(Đại nam điển lệ, tr. 397).
Ta nhận thấy mỗi khoa vẫn chỉ có bốn kỳ như thường lệ, nhưng kể từ nay chữ quốc ngữ và chữ Pháp đều là những môn thi bắt buộc như chữ Hán. Ta cũng nhận thấy chữ Nôm không được nhắc đến. Chữ Nôm tuy được đặt ra từ lâu và đã cống hiến cho nền văn học nước nhà những áng văn thơ bất hủ, song trừ một vài trường hợp đặc biệt như dưới thời Mạc Mậu Hợp, đề mục kỳ đệ tứ khoa Tiến sĩ năm 1565 là một bài phú Nôm và dưới thời Quang Trung, kỳ thi Hương ở Nghệ An khoa 1789 bài làm viết bằng chữ Nôm tuy đầu bài vẫn bằng chữ Hán – Nguyễn Thiếp tức La Sơn Phu tử làm Đề điệu – còn thì chữ Nho vẫn chiếm địa vị độc tôn, thứ nhất dưới triều Nguyễn. Nhà nước phong kiến coi chữ Hán mới đủ nghiêm túc để “chở đạo”, để bàn những vấn đề “kinh bang tế thế”, chữ Nôm chỉ được dùng những lúc giải trí, vui chơi ngẫu hứng, tuyệt nhiên không được có mặt trong các kỳ thi, bởi Khoa cử kén người ra gánh vác những việc “quốc gia dại sự” nên không dùng dến thứ chữ “nôm na mách qué” ấy !
Trên nguyên tác, chương trình cải cách sẽ được áp dụng từ năm 1907, song trung bình ba năm mới có một khoa thi, mà năm 1906 vừa trùng với Khoa thi Hương năm Bính Ngọ, nên chỉ có thể thực sự áp dụng cải cách vào khoa kế tiếp, năm 1909, trừ phi có ân khoa, tức là một khoa ngoại lệ được tổ chức vào những dịp vui mừng đặc biệt như vua mới lên ngôi chẳng hạn. Năm 1907 quả vua Duy Tân lên kế vị vua cha Thành Thái vừa bị hạ bệ, song tôi không nghe nói có ân khoa nào trong dịp này.
Đáng lẽ quyết định của Hội đồng được áp dụng kể từ 1909, nhưng có thể vì sĩ phu phản đối hay vì chính quyền nhận thấy khó lòng thực hiện được nên đến năm 1908 lại thành lập thêm một Hội đồng Cải cách Học vụ (Conseil de Perfectionnement de lenseignement indigène) sửa lại những quyết định năm 1906 của Hội đồng Học vụ như sau :
a) Thi Hương
– Kỳ 1 : 5 đạo văn sách
– Kỳ 2 : 2 bài luận chữ Hán
– Kỳ 3 : 3 bài luận chữ quốc ngữ.
Trúng kỳ 1 mới được vào thi kỳ 2, trúng kỳ 2 mới được vào thi kỳ 3, trúng cả ba kỳ, ai tình nguyện thi chữ Pháp sẽ dịch một bài chữ Pháp ra chữ quốc ngữ, ai không thi không bắt buộc.
– Kỳ 4 = Phúc hạch : 1 bài luận chữ Hán (kinh sử), 1 bài luận chữ quốc ngữ (cách trí, địa dư, sử)
b) Thi Hội
– Kỳ 1 : 7 đạo văn (kinh, truyện (4), Nam sử, Bắc sử, Thái tây liệt quốc sử, cách trí, địa dư, luật nước nhà).
– Kỳ 2 : 1 bài chiếu dụ, 1 bài tấu sớ, 1 biểu văn. Cả 3 đều bằng chữ Hán, văn kim.
– Kỳ 3 : 1 luận bằng chữ Hán, 1 luận chữ quốc ngữ
– Kỳ 4 : 7 đạo sách văn (địa dư, chính trị Đông dương, chính trị nước ta, nhân vật nước ta, hiến chương sáu Bộ, thời vụ).
Ta nhận thấy lần này thi Hương có thêm một kỳ đặc biệt dành cho những ai tình nguyện thi chữ Pháp. Câu thơ “Bốn kỳ trọn vẹn, thêm kỳ nữa” có phải đã được Tú Xương viết sau khi có quyết định này không ? – Chắc chắn là không, bởi vì nhà thơ đã mất ngay từ năm trước (1907), ta chỉ có thể phỏng đoán rằng tuy dự tính cải cách đến 1908 mới chính thức công bố, song dân chúng đã được nghe phong thanh từ trước.
Sau khi công bố, chương trình cải cách có được triệt để áp dụng không ? Tôi thu thập được đầy đủ chi tiết hai khoa thi Hương 1909 và thi Hội 1910, xin chép cả ra đây :
a) Thi Hương khoa 1909, trường Hà Nam
– Kỳ 1 (5/11/1909): 5 đạo văn sách (tu thân, ngũ luân, Nghiêu Thuấn và Khổng Tử, Khoa cử Trung quốc và Khoa cử thời nhà Lê, phép cai trị Đông Dương). Kỳ 1 có 3068 Thí sinh, 934 người đỗ, được phép thi kỳ 2.
– Kỳ 2 (5/11/1909): 2 bài luận chữ Hán (kinh, sử), 408 người đỗ, được dự thi kỳ 3.
– Kỳ 3 (2/12/1909): 3 bài luận quốc ngữ (văn, địa dư, khoa học và tính đố). 261 người đỗ, được vào Phúc hạch.
8/12/1909 Kỳ thi đặc biệt dành cho những ai tình nguyện thi chữ Pháp. Đề mục là một bài chữ Pháp đơn giản, dịch ra chữ quốc ngữ. 32 người thi, 20 người đỗ.
– Kỳ 4 = Phúc hạch (11/12/1909) : 1 bài luận chữ Hán, 1 bài luận chữ quốc ngữ đều hỏi về đạo trị nước. Lấy đỗ 50 Cử nhân và 150 Tú tài.
16/12/1909 Yết bảng và lễ Xướng danh.
b) Thi Hội khoa 1910
– Kỳ 1 : 10 đạo văn sách (chứ không phải 7) hỏi về kinh, truyện, Nam sử, Bắc sử. Chỉ làm 6 bài cũng đủ, ai giỏi muốn làm nhiều hơn càng tốt.
– Kỳ 2 : 1 bài chiếu dụ, 1 sớ / tấu, 1 biểu. Cả 3 đều bằng chữ Hán, văn kim.
– Kỳ 3 : 1 bài luận chữ Hán, 2 bài luận quốc ngữ (đầu bài bằng chữ Hán, bài làm viết quốc ngữ).
– Kỳ 4 : 10 đạo văn hỏi sách hỏi về Thái tây, cách trí, địa dư nước nhà, nhân vật nước nhà và thời sự.
Ai trúng cả ba kỳ đầu và tình nguyện thi chữ Pháp sẽ dịch một bài chữ Pháp ra quốc ngữ. Đầu bài sẽ do tòa Khâm sứ ra, chọn một đường quan (quan lớn) ở kinh, người Việt hiểu chữ Pháp chấm. Theo Quốc Triều Đăng Khoa Lục thì các khoa thi Hội năm 1901, 1904 và 1907 vẫn được tổ chức như cũ, nghĩa là chữ Hán chiếm địa vị độc tôn.
Tóm lại hai khoa thi Hương năm 1909 và thi Hội năm 1910 đích thực là hai khoa đầu tiên áp dụng chương trình cải cách như đã chua rõ trong Quốc Triều Đăng Khoa Lục và Concours triennal du Tonkin, 1909. Ta thấy chữ quốc ngữ nay được nâng lên địa vị ngang với chữ Hán, chữ Pháp mới chỉ là môn thi phụ, “tình nguyện” chứ không bắt buộc. Theo Robert de la Susse thì đến khoa 1912 chữ Pháp vẫn chỉ là môn tình nguyện. Về quốc ngữ, khoa trước (1909) đầu bài ra bằng chữ Hán, Thí sinh cũng làm bài bằng chữ Hán rồi phiên âm ra quốc ngữ khiến những ai không biết chữ Hán đọc không hiểu, kỳ này đề mục ra thẳng bằng quốc ngữ.
Phải đợi đến khoa 1915, theo Trần Văn Giáp chữ Pháp mới trở nên một môn thi bắt buộc vào kỳ đệ tam. Tiếng gọi là môn thi bắt buộc nhưng chữ Pháp lúc ấy chưa thể sánh ngang với chữ Hán, Thí sinh chỉ phải dịch một bài chữ quốc ngữ ra chữ Pháp chứ chưa đủ khả năng viết một bài tràng giang đại hải như khi viết luận chữ Hán.
Nói vậy không có nghĩa là tiếng Pháp lúc đầu không được “dân bản xứ” hoan nghênh, đã có người từ hoan nghênh đi đến khâm phục sát đất, đề nghị nên dùng “tiếng Pháp làm quốc văn” và vứt bỏ tiếng ta đi. Trong Nam Phong số 22 (1919) Thượng Chi (Phạm Quỳnh) đã trích lại lập luận của một “thức giả” : “Nói thương tiếc tiếng An Nam vẫn là hay lắm, nhưng một tiếng nghèo nàn kém cỏi như tiếng An Nam mình thương sao cho đặng ? Chi bằng ta liệu sớm mà bỏ đi, mà theo học một thứ tiếng rất hay, rất đẹp, rất cao thượng, rất hoàn toàn là tiếng Pháp…Tiếng An Nam ta không đủ dùng, không biết còn tập luyện đến bao giờ mới thành được một thứ tiếng hoàn toàn ? Tiếng Pháp không đợi ta tập luyện đã là một tiếng hoàn toàn…Ta thông đồng được với mấy trăm triệu người trên thế giới, chẳng hơn là dùng tiếng An Nam chỉ ngót 20 triệu người hiểu được mà thôi…Hiện tình không những Nam kỳ mà ngay ở Bắc kỳ phàm bọn thượng lưu giao thiệp với nhau toàn dùng tiếng Pháp cả ; tiếng An Nam không ai bảo bỏ mà tự nhiên cũng bỏ, vì dùng nó không tiện bằng tiếng Pháp…Không mấy nỗi mà cả xã hội ta sẽ dùng tiếng Pháp làm cái tiếng phổ thông. Đó là kết quả tự nhiên của Tây học, dầu không muốn cũng không được…Tôi có thằng con nhỏ từ thưở biết nói tôi cho vào học trường Tây, nói thuần tiếng Tây ; nay nó không nói một tí tiếng ta nào nữa”. Đọc mà bàng hoàng. Dĩ nhiên Thượng Chi đã phản đối từng điểm cái đề nghị kỳ quặc của ông Tây da vàng này.
Về phần chữ quốc ngữ thì ngay từ bước đầu đã chiếm được một địa vị khả quan trong các khoa thi, tuy chưa đánh bật được chữ Nho ra ngoài. Tuy thế, dân chúng lại không “nhất trí”. Trừ những bậc sáng suốt như Trần Quý Cáp hay nhóm “Đông Kinh Nghĩa Thục” v.v…đề cao chữ quốc ngữ, phần đông vẫn bảo thủ, khinh bỉ thứ chữ do các giáo sĩ ngoại quốc đặt ra. Đấy là thành phần trí thức, người dân quê xem ra lại còn bảo thủ hơn, nếu ta dựa vào mấy bài đăng trong Nam Phong :
Nguyên Tất Tế, Tri phủ Mỹ Đức, trong Nam Phong số 21, viết : “Trong 100 người có đến 60 người có thể miệng đọc tay viết được (chữ Nho) trên dưới thông dụng thành ra chữ bản quốc…Nhiều khi tôi bảo Tổng sư dậy trẻ thuần bằng quốc ngữ cho chóng thì bố mẹ đem ngay con đi tìm thầy khác. Hỏi cớ sao, người ta đáp : ” Quốc ngữ mất dấu, chữ nọ ra chữ kia, nếu không học Nho, chắc sau con cháu lẫn cả tên ông vải…Thấy trường Pháp Việt mở ra cũng biết cho con học đó thì dễ kiếm ăn, ngặt vì nhà nghèo, một quyển “lecture” (tập đọc) giá 7 hào, đắt hơn 4 quyển Tứ truyện (Tứ thư), một tập giấy Tây giá hào rưỡi, đắt bằng 100 tờ giấy Nam ; mình làm mồ hôi, nước mắt nửa năm trời không đủ tiền gửi con vào trường học một tháng, đành cho con học Nho vậy, để biên ký việc nhà”.
Trần Duy Nhất, (Nam Phong số 47) đặt câu hỏi : “Tại sao mà sự quốc dân giáo dục không có cơ tiến bộ ?”. Theo tác giả thì phần đông cho “học quốc ngữ là vô dụng”. Chỉ vì nghị định bắt người ra làm Tổng Lý phải biết chữ quốc ngữ nên khi nào sắp đi làm họ sẽ học rút. Họ nói “Học làm quái gì chữ cò quăm mách qué ấy ? Chữ Thánh hiền nào lại có chữ thánh thế ? Thánh nào lại dậy nhảm nhí những con cua, con ốc ấy ? đến đàn bà, trẻ con cũng thừa biết nữa là”. Bởi những người này đơn giản nghĩ rằng học chữ quốc ngữ hiểu ngay, không phải học nghĩa như chữ Nho, nên cho rằng không khó, không học cũng biết, không cần học, và tin tưởng rằng “học quốc ngữ thì đến già đời cũng không làm gì được”. Đến khấn vái tổ tiên cũng dùng chữ Nho, sợ chữ Nôm sai lạc, gia phả, chúc thư, văn tự, văn tế, đơn từ đều bằng chữ Nho. Khi nhà cầm quyền cưỡng ép bắt họ cho con em đi học chữ quốc ngữ hay chữ Pháp thì có người “coi chỗ học đường hầu như giám thất, mà cho đi học là một cái tội, phải bắt bớ, phải chạy bậy mới được thả ra”.
Người dân quê hồi đầu thế kỷ tôn trọng chữ Hán không có gì lạ bởi Khoa cử chỉ mới bị bãi bỏ từ năm 1919, nhưng đến 1970 mà họ vẫn tôn trọng chữ Nho thì quả là điều đáng cho ta lưu ý. NguyễnVăn Xuân, trong Phong Trào Duy Tân (1970) viết : “Ở thôn quê hiện nay, đôi nơi vẫn còn cái tục trọng chữ thánh hiền, người ta dùng bất kỳ thứ giấy quốc ngữ, Tây, Mỹ để biến thành giấy vệ sinh, nhưng giấy có chữ Nho thì tuyệt nhiên không bao giờ !”, mặc dầu khi ấy chữ quốc ngữ đã chiếm một địa vị vượt xa chữ Hán. Cho nên nói rằng đạo Nho thâm nhập cốt tuỷ của dân ta không phải là nói ngoa vậy.