Tác giả – Mary Robinette Kowal
17 tháng 7 năm 2019,
Khi chúng ta kỷ niệm 50 năm ngày Apollo 11 hạ cánh lên mặt trăng, NASA đã đang bắt đầu Artemis, một chương trình nhằm “đưa các phi hành gia trở lại bề mặt Mặt trăng vào năm 2024, bao gồm người phụ nữ đầu tiên và người đàn ông tiếp theo đặt chân lên đây”.
Mặc dù các phi hành gia sẽ phải đương đầu những thách thức rất lớn đang chờ đợi, nữ phi hành gia đầu tiên (đặt chân lên Mặt trăng) sẽ phải đối mặt với những trở ngại lớn hơn đơn giản vì mọi thứ liên quan đến các chương trình không gian đều thừa hưởng di sản từ Apollo – một chương trình được thiết kế bởi đàn ông, dành cho đàn ông.
Có lẽ việc dành cho đàn ông không phải là cố ý, nhưng phụ nữ không được phép tham gia chương trình phi hành gia cho đến cuối những năm 1970, và chưa từng có một người giới tính nữ nào được phóng lên cho đến năm 1983, khi Sally Ride trở thành người phụ nữ Mỹ đầu tiên bay vào không gian. Cho đến trước thời điểm đó, chương trình không gian vẫn chỉ được xây dựng để phù hợp với cơ thể nam giới .
Nếu chúng ta không thừa nhận sự thiên vị về giới của chương trình vũ trụ thời sơ khai, việc vượt qua nó sẽ trở nên khó khăn. Một trong những điều hấp dẫn nhất ở NASA là cách tiếp cận thất bại. Thất bại sẽ không bị phạt theo văn hóa của tổ chức; ngược lại được đánh giá cao vì những điều mà ta có thể học từ nó rất có thể sẽ giúp cứu được nhiều mạng sống hoặc tài nguyên trong tương lai. Như Bobak Ferdowsi, một kỹ sư hệ thống tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA đã nói, “những sai lầm tốt nhất là những sai lầm mà ta có thể học hỏi từ chúng.”
Vậy bài học rút ra từ thất bại của NASA trong việc đưa phụ nữ lên không gian trong kỷ nguyên Apollo là gì?
Sự “rút kinh nghiệm” gần đây nhất là vào tháng 4 (2019), khi NASA đã lên lịch cho một chuyến đi bộ ngoài không gian, khá tình cờ, được thực hiện bởi hai nữ phi hành gia. Họ đã phải thay đổi luân phiên để thực hiện nhiệm vụ vì chỉ có một bộ đồ vũ trụ có kích thước phù hợp với cả hai.
Đây không phải là lời buộc tội NASA của năm 2019. Nhưng nó kết quả rõ ràng của một chuỗi những tác động nhân quả bắt đầu từ thời chương trình Apollo đã dẫn đến các lựa chọn nhân sự ngày nay.
Những bộ quần áo, được gọi là đơn vị di động ngoại vi, được thiết kế hơn 40 năm trước, dựa trên thiết kế của các sứ mệnh Apollo, vào thời điểm mà tất cả các phi hành gia đều là nam giới. Chỉ có bốn trong số 18 bộ quần áo ban đầu vẫn được đánh giá đủ tốt cho các chuyến bay vào không gian, và tất cả những bộ quần áo đó đều ở trên trạm vũ trụ.
Ban đầu NASA lên kế hoạch tạo ra những bộ trang phục theo các size cực nhỏ, nhỏ, vừa, lớn và cực lớn. Vì lý do ngân sách, những bộ đồ cực nhỏ, nhỏ và cực lớn đã bị cắt. Tuy nhiên, nhiều nam phi hành gia không thể mặc vừa những bộ đồ lớn, vì vậy những bộ đồ có kích thước lớn hơn đã được dùng trở lại.
Nhưng những bộ trang phục có kích thước nhỏ hơn thì không bao giờ.
Cady Coleman, một phi hành gia đã bay trên hai tàu con thoi và du hành đến trạm vũ trụ, cao 5 feet 4 (~1m62) và vẫn là người nhỏ nhất từng đủ điều kiện đi bộ ngoài không gian. Trong khi được đào tạo trong Phòng thí nghiệm Trung tính Nổi (NBL) của NASA, cô ấy phải lót thêm đệm bên trong bộ đồ vũ trụ của mình.
Bằng không, sẽ có một bong bóng khí bên trong bộ quần áo của những người thể hình nhỏ và khiến họ cảm thấy như thể bị ấn một quả bóng chuyền bãi biển vào bụng khi họ đang bị quay trong hồ bơi của phòng thí nghiệm. Coleman nói với tôi trong không gian thì sẽ không xảy ra vấn đề gì. “Nhưng N.B.L. là nơi người ta sẽ quyết định xem một người có đủ tố chất cần thiết để thực hiện một chuyến đi bộ ngoài không gian,” cô nói.
Thế còn những lời phàn nàn? Chà, trước đây không có ai khác gặp phải vấn đề đó, vậy chắc hẳn chỉ có mỗi người này bị thôi, vì chỉ có mỗi họ phàn nàn. Kết quả là, sự lệch lạc giới tính này đã trở thành một sai lầm mà chúng ta không học được gì, vì các nữ phi hành gia đã phải hứng chịu.
Bên trong bộ đồ vũ trụ, các phi hành gia mặc bộ quần áo làm mát và thông gió bằng chất lỏng. Nó trông giống như bộ đồ lót toàn thân được bao phủ bởi hàng mét ống. Nó lưu thông nước quanh cơ thể các phi hành gia để làm mát. Đàn ông và phụ nữ mặc cùng một loại quần áo này mặc dù hai giới có sự khác biệt về vấn đề mồ hôi. Đàn ông đổ mồ hôi nhiều hơn những phụ nữ có thể hình tương đương và có sự khác biệt ở những bộ phận đổ mồ hôi nhiều nhất trên cơ thể. Nói cách khác, khi nói đến quần áo kiểm soát nhiệt độ, nhu cầu của nam và nữ khác nhau.
Chúng ta đã nhận thức được điều này trong vấn đề nhiệt độ văn phòng tiêu chuẩn. Nhiệt độ được thiết lập phù hợp cho nam giới, khiến nữ giới phải mang áo len đến nơi làm việc.
Một nghiên cứu năm 2015 của các nhà nghiên cứu Hà Lan đã phát hiện ra rằng các quy định về điều hòa không khí trong nhà dựa trên “mô hình tiện nghi nhiệt thực nghiệm” được phát triển vào những năm 1960. Họ kết luận: “Các giá trị tiêu chuẩn cho một trong những biến chính của nó – tỷ lệ trao đổi chất – dựa trên một nam giới trung bình, và có thể đã đánh giá quá cao tỷ lệ trao đổi chất của nữ giới, cao hơn đến 35% so với thực tế.”
NASA tự hào quảng cáo nhiệt độ môi trường trong tàu con thoi là lý tưởng, chỉ cần mặc áo mỏng là thoải mái. Thế nhưng, nếu bạn xem “The Dream Is Alive”, một bộ phim tài liệu năm 1985 do các phi hành đoàn thực hiện trên tàu con thoi, hãy để ý Kathryn Sullivan mang một đôi dép len dày.
Phụ nữ muốn tham gia đều được yêu cầu phải chấp thuận những điều tưởng như nhỏ nhặt. Nhưng nó như một quả bóng tuyết, ngày càng phình to hơn theo thời gian.
Ta cần nhìn lại những năm 1950, khi có vẻ như phụ nữ đã có thể được bao gồm trong chương trình không gian thời sơ khai.
Vào những năm 1950, trước khi chúng ta đưa bất kỳ ai vào không gian, Tiến sĩ Randolph Lovelace đã tự hỏi phụ nữ sẽ du hành vũ trụ như thế nào. Ông đã thiết kế các bài kiểm tra cho các phi hành gia của chương trình Mercury và đã có 19 phụ nữ đến vòng đánh giá đầu tiên. Mười ba người đã vượt qua. Trên thực tế, từ việc thử nghiệm nhóm “First Lady Astronaut Trainees”, Tiến sĩ Lovelace đã phát hiện ra rằng phụ nữ có thể thích hợp với không gian hơn nam giới.
Họ nhỏ hơn, điều này sẽ giúp giảm trọng tải. Họ có sức khỏe tim mạch tốt hơn và tiêu thụ oxy ít hơn. Và họ chịu đựng được lực G cao hơn và làm tốt hơn nam giới trong các bài kiểm tra về sự cô lập và căng thẳng. (Một trong số những người phụ nữ của nhóm là mẹ của tám đứa con, và tôi không đừng được việc tưởng tượng cô ấy đối mặt với các bài kiểm tra và tự hỏi sao không có gì khó như họ đã bảo nhỉ)
Bất chấp tất cả, các thử nghiệm đã bị dừng lại. Những người phụ nữ, sau này được gọi là Mercury 13, đã đến Quốc hội để cố gắng chống lại phán quyết, nhưng khi đó, Hoa Kỳ đang ở trong một cuộc đua mặt trăng. Đưa một người phụ nữ vào không gian không phải là mối bận tâm chính, và một phần vì Liên Xô đã phóng người phụ nữ đầu tiên, Valentina Tereshkova, vào không gian, ý tưởng đó bị chế giễu là một trò bắt chước đối thủ.
Quyết định này có nghĩa là vào năm 1962, nó đã được coi là chính sách, như một quan chức NASA đã viết trong một bức thư gửi một bé gái muốn trở thành phi hành gia, rằng “hiện tại chúng ta không có kế hoạch tuyển dụng nữ giới trên tàu vũ trụ vì lý do trình độ khoa học, huấn luyện bay và các đặc điểm thể chất, được yêu cầu.”
Sự thiên vị giới tính trong tuyên bố này, đối với một độc giả hiện đại, là không thể nhầm lẫn.
Trong dự án Mercury, các phi hành gia không cần được đào tạo khoa học – họ chỉ cần bằng cử nhân hoặc tương đương. John Glenn thậm chí còn không có bằng cấp.
Và khóa huấn luyện bay – chính xác thì nghĩa là gì? Đối với dự án Mercury, các phi hành gia cần phải tốt nghiệp trường phi công thử nghiệm, với thời gian bay tối thiểu 1.500 giờ và là một phi công phản lực đủ tiêu chuẩn.
Yêu cầu trở thành một phi công thử nghiệm là một lựa chọn hợp lý, không phải vì thần kinh thép cần thiết để lái máy bay thử nghiệm, mà bởi vì các phi công thử nghiệm được đào tạo để ghi chép trong khi lái và đưa ra các báo cáo rõ ràng sau đó. Nhưng tiêu chí này đã loại bỏ các phi công nữ, bởi vì các trường đào tạo phi công đủ điều kiện duy nhất là quân đội và họ không nhận nữ.
Xin lưu ý với bạn, trong Thế chiến thứ hai, các phi công của Lực lượng Không quân Phụ nữ chịu trách nhiệm đào tạo phi công và lái xe kéo máy bay để thực hành bắn đạn thật, cũng như lái phà và thử nghiệm điều khiển máy bay. Trong nhiều trường hợp, những người phụ nữ này có nhiều giờ bay hơn các đồng nghiệp nam. Tuy nhiên, họ không có chứng chỉ từ một trường đào tạo phi công.
Kari Love, một cựu nhà thiết kế trang phục không gian, đã từng nói với tôi rằng “khi nhìn lại và thấy được tại sao phụ nữ chẳng được đoái hoài trong lĩnh vực hàng không vũ trụ cho đến thời điểm này, ta hiểu được lý đo tại sao chúng ta có nguy cơ rất lớn bị sao chép lại khi chuyển sang thời đại máy bay vũ trụ thương mại.”
Nếu không suy nghĩ một cách duy lý, việc thiết kế tàu và cơ sở mặt trăng cho sứ mệnh Artemis có thể sẽ lặp lại xu hướng lựa chọn thiết kế giống với thời kỳ Apollo, tức chỉ phù hợp cho các phi hành gia nam giới.
Các bậc thang được đặt ở khoảng cách tối ưu cho một người đàn ông bình thường. Tay cầm của dụng cụ hình súng, hoặc máy khoan không dây, có kích thước vừa tay nam giới hơn.
Tiếp đó, có những câu hỏi mà chúng ta không thể trả lời đơn giản vì có quá ít dữ liệu. Kể từ năm 1961, khi Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên bay vào vũ trụ, hơn 500 người đã ở trong không gian và chỉ 64 người trong số họ là phụ nữ. Chúng ta biết rằng các phi hành gia phải nhận nhiều bức xạ hơn trong không gian. Các nghiên cứu trên Trái đất cho thấy bức xạ có thể ảnh hưởng đến phụ nữ với tỷ lệ cao gấp 10 lần so với nam giới. Điều đó sẽ diễn ra như thế nào trong không gian?
Khi chúng ta nhìn lại chương trình Apollo và suy tính cho sứ mệnh Artemis, điều quan trọng là phải xem xét các thành kiến giới của chương trình không gian thuở ban đầu để rút ra bài học kinh nghiệm. Nếu chúng ta muốn đưa người phụ nữ đầu tiên lên mặt trăng, hãy đảm bảo rằng cô ấy có các công cụ được thiết kế phù hợp với mình. Xóa bỏ bức tường định kiến giới chỉ là một bước nhỏ.
___________________________________
Ảnh: Phi hành gia Eileen Marie Collins thực hành sử dụng mặt nạ phòng độc trong một cuộc thử nghiệm trình diễn đếm ngược đầu cuối tại Launch Pad 39A ở Cape Canaveral, Fla., vào năm 1997. Credit: NASA.
___________________________________
[Hehehe funny story time]
Tin đồn: NASA đã phải gắn nhãn lại biểu đồ kích thước được sử dụng cho dụng cụ đi tiểu giống bao cao su được tích hợp trong hệ thống Quần áo Không gian Có khả năng hấp thụ tối đa vì các phi hành gia từ chối chọn kích cỡ “nhỏ”.
Tin đồn về kích cỡ đi tiểu này bắt nguồn từ tập phim “Space Suit” của Moon Machines, một bộ phim tài liệu nhỏ của Science Channel năm 2008 ghi lại những thách thức kỹ thuật của chương trình không gian Apollo. Donald Rethke, người được phong biệt danh “Dr. Flush ” nhờ công việc của ông về quản lý chất thải không trọng lực, đã nêu trong cuộc phỏng vấn cho bộ phim tài liệu, biểu đồ kích thước của bao cao su tiết niệu được gắn với hệ thống quần áo không gian có khả năng thấm hút tối đa đã phải được thay đổi vì các phi hành gia từ chối chọn kích thước “nhỏ ”:
“Bên trong bộ phận thu gom nước tiểu, mà chúng tôi gọi là túi đựng nước tiểu, là một túi có dung tích một lít. Và phần gắn vào cơ thể là một chiếc bao cao su với một cái vòi ở cuối để dẫn nước tiểu chảy vào túi. “
Ban đầu bao cao su có ba kích cỡ khác nhau: nhỏ, vừa và lớn. Nhưng một số phi hành gia, dù kích thước thực của họ là gì, từ chối chấp nhận bất cứ thứ gì ngoại trừ kích cỡ lớn.
“Chúng tôi đã đổi tên thành lớn, khổng lồ và khổng lồ bự chảng.”
Mặc dù giai thoại hài hước này chắc hẳn cũng có một chút sự thật bên trong, nhưng Tiến sĩ Flush đã thêu dệt nên câu chuyện.
Phi hành gia của Apollo 11, Michael Collins, đã kể một câu chuyện tương tự trong cuốn sách Carrying the Fire: An Astronaut’s Journeys năm 2009, nhưng Collins cho biết kích thước đã được thay đổi thành “cực lớn”, “siêu lớn” và “không thể tin được”. Đáng chú ý hơn, Collins gợi ý những “thuật ngữ hào sảng” này chỉ là những tham chiếu không chính thức, không phải là quy định chính thức:
Và rồi, đến lúc mặc một túi đựng nước tiểu bằng nhựa màu vàng hình tam giác bằng cách đưa dương vật vào một ống thu cao su được gắn ở một góc của nó. Ống cao su có ba kích thước (nhỏ, vừa, lớn), luôn được gọi bằng những thuật ngữ hào sảng hơn: cực lớn, siêu lớn và không thể tin được.
Collins và Tiến sĩ Flush có thể không đồng tình với nhau về cách gọi mới, nhưng việc chọn kích cỡ bao cao su phù hợp thực sự là một vấn đề khiến các phi hành gia trên tàu Apollo khó chịu. Russell Schweickart, Phi công Mô-đun Mặt trăng trong sứ mệnh Apollo 9 năm 1969, cho biết trong một cuộc phỏng vấn, đi tiểu trong không gian là một việc hơi khó khăn:
Luôn có khả năng khi vận động trong bộ đồ bạn có thể rút cái ấy khỏi bao cao su, vậy nên điều quan trong ở đây là độ khít với đường kính – chúng tôi có ba kích cỡ mà bạn biết, nhỏ, vừa và lớn – của bao cao su, và cái tôi luôn luôn có tác động nhỏ nhặt nào đó trong việc bạn chọn cỡ nào. Tất nhiên, một chàng thông minh sẽ chọn đúng kích cỡ vì nó rất quan trọng. Nhưng điều xảy ra là, nếu bạn mang kích thước quá nhỏ, có khả năng dòng chảy nước tiểu sẽ bị chèn ép và thế bạn bắt đầu hoảng vì bạn không thể “đi”; và mặt khác, nếu bạn gặp vấn đề về bản ngã và bạn quyết định chọn cỡ lớn dù bạn vừa với cỡ trung bình, thì điều gì sẽ xảy ra là ngay trong lần tè đầu tiên bạn sẽ thấy một đống nước tiểu trôi nổi ngược trở lại trên người. Và đấy là lần cuối cùng bạn mắc phải sai lầm đó. Đại khái cũng cần chút tỉnh táo cho việc này.
Với các nội dung khác nhau được cung cấp bởi Schweickart, Collins và Tiến sĩ Flush, rất khó có khả năng việc thay đổi tên này được thực hiện ở bất kỳ cấp chính thức nào tại NASA. Tuy nhiên, có vẻ như sự hài hước của tin đồn này vẫn bô bô tồn tại.
