Đâu là một vài sự thật ít được biết đến về Thế vận hội Olympic?

A: Spencer McDaniel

_________________

Thế vận hội Olympic mùa hè 2020 tại Tokyo nay đã chính thức bắt đầu, sau một năm bị trì hoãn do đại dịch. Bất kì ai biết tôi đều sẽ nói rằng tôi là một người không có chút hứng thú với thể thao và, vì thế, tôi sẽ chẳng xem bất kỳ buổi thi đấu nào trong khuôn khổ Olympic. Tuy nhiên, tôi có biết một chút về lịch sử Giải Olympic, do tôi nghiên cứu rất kỹ về lịch sử Hy Lạp và La Mã cổ đại, nên nhân tiện sự kiện này, tôi sẽ chia sẻ một vài truyền thuyết thú vị mà tôi biết về lịch sử của Thế vận hội Olympic này.

Đầu tiên là một truyền thuyết về chuyện các vận động viên Olympic cổ đại được yêu cầu phải lõa thể hoàn toàn, chuyện thứ hai là về một người phụ nữ cải trang thành nam giới để được dự Thế vận hội Olympic, và thứ ba là về việc làm thế nào mà phụ nữ đôi khi có thể tham gia thi đấu trong thế vận hội này bởi một lỗ hổng trong luật, và thứ tư là về việc tại một thời điểm trong lịch sử hiện đại từng có bộ môn văn học và nghệ thuật trong thi đấu tại thế vận hội Olympic.

Tại sao các vận động viên tại thế vận hội Olympic cổ đại lại trần trụi hoàn toàn?

Nhiều người ngày nay biết rằng tất cả các vận động viện tại các kỳ Olympic cổ đại đều được yêu cầu thi đấu trong trạng thái lõa thể. Không ai biết tại sao và làm thế nào mà luật này được đề ra, nhưng người Hy Lạp cổ đại có ít nhất một điển tích có thể giải thích cho việc này. Một cây bút thời Hy Lạp cổ đại, Pausanias (110 – 180 CE) đã kể lại câu chuyện này trong cuốn sách của ông “The Guide to Greece”.

Câu chuyện là thế này. Thuở ban đầu, tất cả những vận động viên Hy Lạp luôn luôn mặc khố khi thi đấu. Sau đó, vào Thế vận hội Olympics năm 720 BCE, một vận động viên chạy tên Orsippos của xứ Megara vô tình đánh rơi chiếc khố trong lúc đang chạy. Mặc dù mất khố, Orsippos vẫn tiếp tục cuộc đua. Cuối cùng anh ấy thắng cuộc đua và trở thành vận động viên đầu tiên được trao giải trong trạng thái trần trụi. Và từ đó, theo lời Pausanias, người Hy Lạp luôn luôn luyện tập và thi đấu một cách mát mẻ như thế.

Pausanias cũng hoài nghi về câu chuyện gốc, thay vào đó nhấn mạnh rằng Orsippos đã cố tình tuột bỏ chiếc khố của mình vì anh ấy biết rằng ở truồng sẽ chạy nhanh hơn khi mặc khố. Tuy nhiên, về mặc lịch sử mà nói, có lẽ chẳng phiên bản nào là thật; ai đó chắc hẳn đã bịa ra câu chuyện để giải thích cho việc tại sao vận động viên Hy Lạp lại hoàn toàn lõa thể khi thi đấu.

Người phụ nữ cải trang thành nam giới để xem con trai thi đấu

Bởi vì tất cả các bộ môn thi đấu ở Thế vận hội Olympics cổ đại luôn trong trạng thái lõa thể, công dân nữ bị cấm bén mảng đến Olympia khi hội thao diễn ra, bởi vì xem trai khỏa thân là chuyện không đứng đắn cho phụ nữ lúc bấy giờ. Vào thời điểm đó cũng có những cuộc thi khác dành riêng cho phụ nữ. Đáng chú ý có Thế vận hội Hera, một đại hội thể thao dành riêng cho phụ nữ, diễn ra tại Olympia 4 năm một lần. Tuy nhiên, những cuộc thi dành cho phụ nữ thường kém uy tín hơn Olympics của nam giới.

Diagoras của đảo Rhodes là một đấu sĩ Olympic nổi tiếng nửa đầu thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Ông có 3 người con, tất cả đều có những chiến thắng tại Olympics cho riêng mình. Ông còn có một người con gái tên Pherenike, người được gọi là “Kallipáteira”/”She with the Beautiful Father”. Pausanias ghi chép trong Guide to Greece rằng Pherenike là công dân nữ duy nhất từng xem thi đấu tại Olympia trong Thế vận hội Olympic.

Pausanias kể rằng Pherenike là một góa phụ và con trai Peisirrhodos của cô thi đấu tại Olympic, nên cô ấy đã cải trang thành một ông huấn luyện viên thể dục dụng cụ để đi cùng con trai đến Olympia và xem con thi đấu. Sau khi con trai thắng, cô đã quá phấn khích vượt rào (chỗ mấy huấn luyện viên đứng) để đến ăn mừng và vô tình để lộ giới tính thật của mình.

Hellanodikai (kiểu như ban tổ chức) đã tha không phạt tội Pherenike vì cha, anh em trai và con trai của cô đều từng thắng giải tại Olympic. Mặc dù vậy, họ cũng đưa ra một điều luật mới, từ ngày hôm đó, tất cả các huấn luyện viên cũng bị yêu cầu cởi truồng trước khi vào Olympia để chứng minh với mọi người rằng họ là đàn ông đích thực.

Những phụ nữ thi đấu tại Thế vận hội Olympic cổ đại

Một vài phụ nữ Hy Lạp đã tìm ra lỗ hổng trong luật để họ có thể thi đấu tại Olympics vốn chỉ dành cho nam giới. Bạn thấy đấy, phụ nữ bị cấm tham dự các cuộc thi, nhưng họ không thật sự bị cấm thi đấu các cuộc thi, có nghĩ rằng họ được phép thi đấu miễn là không có mặt trong cuộc thi.

Một điều luật trong bộ môn đua xe ngựa đề rằng người chiến thắng cuộc thi là người sở hữu hợp pháp cỗ xe ngựa thắng cuộc. Người này không nhất thiết phải lái cỗ xe ngựa ấy tại cuộc đua, có nghĩa rằng một phụ nữ sở hữu một chiếc xe ngựa và nhờ một người đàn ông lái chiếc xe ấy tại kỳ Olympics, nếu chiến thắng thì phần thắng thuộc về người phụ nữ ấy.

Người phụ nữ đầu tiên thi đấu tại Olympics là Kyniska, con gái vua của Eurypontid Archidamos Đệ Nhị. Pausanias ghi chép rằng cô ấy vô cùng ham muốn được thi đấu tại Thế vận hội Olympic từ thuở nhỏ. Nhưng cũng như với phần lớn phụ nữ Hy Lạp thời bấy giờ, đều này là một giấc mơ hão huyền, nhưng Kyniska lại vô tình vừa giàu có quyền lực vừa may mắn.

Các học giả hiện đại thường phát họa Sparta cổ đại là thiên đường cho nữ giới. Tôi đã từng giải thích về việc chuyện này là không chính xác ở nhiều điểm, đặc biệt khi bạn nghĩ đến việc phần lớn phụ nữ ở Sparta là nô lệ bị áp bức và đàn áp tàn tệ. Tuy nhiên, thành Sparta lại kỳ lạ ở chỗ là rất khuyến khích các cô gái trẻ của tầng lớp quý tộc theo đuổi nghiệp vận động viên, trong khi ở Hy Lạp thì không như vậy.

Kyniska cũng may mắn sống trong thời kỳ mà sức mạnh của Sparta đang ở đỉnh cao. Năm 404 trước Công Nguyên, Sparta đánh bại Athens tại trận Peloponnisos. Và kết quả là Sparta trở thành thế lực mạnh mẽ nhất toàn cõi Hy Lạp lúc bây giờ, áp đảo hoàn toàn các thế lực khác. Vào khoảng năm 400 trước Công Nguyên, anh trai của Kyniska là Agesilaos đệ Nhị trở thành vua Eurypontid của Sparta. Agesilaos nhanh chóng được mô tả là một người cai trị quyết liệt, dùng quyền lực của mình để kéo dài quyền cai trị. Ông không phải kiểu người mà người khác dám nói “không”.

Năm 396 TCN, Kyniska tham gia đua ngựa tại Olympic với cỗ xe và ngựa của riêng mình, với một người đàn ông được thuê để lái cỗ xe đó. Bởi vì cỗ xe ngựa của cô chiến thắng cuộc đua, cô cũng giành được vinh quang chiến thắng cuộc đua, mặc dù cô ấy không thật sự tham dự cuộc đua ấy. Cô tham gia đua một lần nữa vào năm 392 TCNvà thắng lần thứ hai với cỗ xe ngựa của mình, giúp cô trở thành người phụ nữ thắng liên tục hai lần tại Olympic dù rằng chẳng đặt chân đến Olympia.

Điều còn thú vị hơn là Kyniska đã mở cánh cổng để các phụ nữ Hy Lạp tham gia thi đấu bộ môn đua xe ngựa tại Olympic. 24 năm sau chiến thắng thứ hai tại Olympic của Kyniska, một phụ nữ Spartan giàu có tên Euryleonis bằng cách tương tự đã chiến thắng cuộc đua và trở thành người phụ nữ thứ hai thắng tại kỳ thi Olympic.

Một gái bao giàu có tên Bilistiche đã thắng cuộc đua 4 ngựa tại Thế vận hội Olympic năm 264 TCN. Polykrates của xứ Argos, một chỉ huy của Vương quốc Ptolemaic, có 3 người con gái Zeuxo, Enkratia và Hermione, đều tham gia thi đấu và thắng cuộc đua ngựa tại Thế vận hội Panathenaiac từ năm 192 đến 194 TCN. Năm 84 TCN, một phụ nữ từ Elis tên Theodota thằng cuộc đua 4 ngựa, và một phụ nữ khác cũng từ Elis tên Timareta đã thắng cuộc đua xe 2 ngựa.

Bài thơ dở tệ của Baron de Coubertin

Thế vận hội Olympic ở Hy Lạp cổ đại là một sự kiện quan trọng đối với giới thơ ca. Nhiều nhà thơ du lịch đến Olympia nhằm xướng lên với một lượng lớn khán giả bài thơ của chính họ hay một bài thơ mà họ nhớ trong đầu. Nhiều nhà thờ thậm chícòn viết những bài thơ ca (ode) để ngợi ca những người chiến thắng. Nhà thơ nổi tiếng Pindaros xứ Thebes (518 – 438 BCE) đã viết 14 bài thơ ca (Ode: bài thơ có nhạc đệm) để vinh danh những nhà vô địch tại Olympic.Trong đó, “First Olympian Ode” là nổi tiếng nhất.

Charles Pierre de Frédy, Baron de Coubertin là một quý tộc người Pháp nổi tiếng ngày nay với cái danh người sáng lập ra Thế vận hội Olympic hiện đại. Ông thành lập nên Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) vào năm 1894 và tổ chức Thế vận hội Olympic hiện đại đầu tiên ở Athen vào năm 1896. Baron de Coubertin là một nhà truyền thống duy tâm, người tin chắc vào ý tưởng mens sana in corpore sano (“một cơ thể khỏe mạnh trong một tâm trí lành mạnh”). Ông ấy muốn bắt chước Thế vận hội Olympic cổ đại ở tất cả mọi khía cạnh – bao gồm cả việc nhấn mạnh sự quan trọng của nghệ thuật.

Tại Thế vận hội Olympic 1912 tại Stockholm, Thụy Điển, Baron de Coubertin giới thiệu các bộ môn nghệ thuật thi đấu tại Olympic bao gồm 5 hạng mục: kiến trúc, văn học, âm nhạc, hội họa, và điêu khắc. Các quy tắc bao gồm việc khi gửi bài dự thi, các tác phẩm dự thi phải được truyền cảm hứng bởi thể thao và nguyên bản (tức là chưa được công bố ở bất kỳ dạng nghệ thuật nào trước đây). Ban giám khảo sẽ quyết định tác phẩm nào là tốt nhất và trao huy chương vàng, bạc và đồng cho từng tác phẩm đoạt giải.

Và rồi, Baron de Coubertin đã âm thầm nộp bài thơ của chính mình cho hạng mục văn học với cái tựa “Ode to Sport”. Bài thơ được viết bằng tiếng Đức và gửi kèm bản dịch văn xuôi bằng tiếng Pháp. Bài thơ được đăng ký dưới hai cái tên giả là “Georges Hohrod” và “Martin Eschbath.”

Bài thơ đó của Baron de Coubertin đã thắng huy chương vàng trong hạng mục văn học năm đó, mặc dù sự thật là bài thơ cực kỳ tệ. Nó đúng là cái kiểu thơ mà bạn nghĩ đến khi bảo một ông quý tộc người Pháp bảo thủ cuồng thể thao viết, kiêm một nhà thơ nghiệp dư sinh vào thế kỉ 19 viết ra.

~Mình xin bỏ qua phần chèn thơ mọi người có thể đọc bản gốc trong link~

Thế vận hội Olympic mùa hè tại Lôn Đôn năm 1948 là lần cuối cùng có sự có mặt của các môn nghệ thuật. Thế vận hội Olympic 1952 tại Helsinki không bao gồm các môn nghệ thuật. Năm 1954, IOC bỏ phiếu kết thúc hẳn các môn nghệ thuật ra khỏi Olympic và thay thế bằng một triển lãm nghệ thuật.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *