Miền Mảnh Trăng Màu Mỡ, mà Lưỡng Hà là một bộ phận của nó, là nơi mà gần 8500 năm trước, lần đầu tiên trên thế giới homo sapiens bứt phá ra khỏi lối sống quen thuộc mấy chục vạn năm của đời sống săn bắt hái lượm để chuyển sang đời sống sản xuất lương thực. Khoảng sau đó 3500 năm, họ đã sáng tạo ra thứ mà chúng ta đang dùng để giao tiếp với nhau đây: những kí tự. Nắm trong tay thứ công cụ vĩ đại này, nhưng ban đầu người Lưỡng Hà chỉ dùng nó để ghi công ghi nợ, nghe thì rất chán, nhưng thực ra công năng đó lại hoàn toàn phù hợp với mức độ sơ đẳng thê thảm của thứ chữ viết thời kì đầu ấy. Sau nhiều thế hệ, người Lưỡng Hà cuối cùng cũng đã phát triển thứ công cụ ấy để làm những việc mà người hiện đại chúng ta cho là đương nhiên phải làm trong một ngày: chăm sóc sức khỏe của mình một tí, lo lắng dạy bảo đời thiên hạ một tí, ngắm nghía mơ mộng giải trí một tí, kể lể thanh cao và tầm phào về mình một tí. Cách đây 3000-4000 năm, người Lưỡng Hà đã làm tất cả những việc đó trong những chỉ dẫn y học, những văn bản pháp luật, những suy đoán chiêm tinh và những bản anh hùng ca. Nhiều dân tộc cũng đã làm việc đó từ rất lâu, nhưng đều đi sau họ hay lấy ý tưởng từ họ. Người Lưỡng Hà chính là những người tiên phong.
1.GILGAMESH, ANH HÙNG CA HAY BI TRÁNG CA
Nền văn minh Babylon có vai trò nổi bật trong lịch sử thế giới, vì nó là trung gian lưu truyền lại nền văn hóa Sumer-Akkad cho cả vùng Tây Á, và cách riêng, Babylon chính là bối cảnh văn hóa trực tiếp của Kinh Thánh Cựu Ước… Khi từ quê cha đất tổ là vùng đất của người Amorite ở Lưỡng Hà di cư đến Canaan, tổ tiên người Do Thái rất có thể đã mang theo những truyền thống tập tục mà sau này được đưa vào các thiên sử thi ở những chương đầu của sách Sáng thế: cuộc tạo dưng, vườn địa đàng, lụt Hồng thủy, tháp Babel.
Anh hùng ca Gilgamesh là tác phẩm văn chương nổi tiếng nhất của nền văn minh Lưỡng Hà Cổ, nó cũng chính là tác phẩm văn chương đầu tiên của thế giới còn lưu giữ lại được. Nó là một thiên sử thi dường như được chắp vá từ ít nhất bốn câu chuyện cổ của nền văn minh Sumer. Trong đó, có một câu chuyện thường được mệnh danh là ‘Noah của Babylon’. Câu chuyện kể về việc một hôm nọ, các thần linh do ganh tị đã quyết định tiêu diệt mọi sinh vật trên mặt đất. Nhưng Ea, một vị thần thủ công, đã tiết lộ kế hoạch của các thần cho một người mà thần yêu thích là Utnapishtim, và dạy ông ta làm một con tàu. Utnapishtim đưa vào tàu tất cả gia đình, tôi tớ, của cải và một vài loài vật. Đúng vào ngày mà thần mặt trời Shamash chỉ định, trận lụt đã bắt đầu, và đã kéo dài sáu ngày sáu đêm. Qua ngày thứ bảy, tàu của Utnapishtim đậu lại trên đỉnh Nisir, ngọn núi đầu tiên hiện lên khỏi làn nước. Utnapishtim chờ đợi thêm bảy ngày nữa rồi thả một con chim bồ câu, nó bay đi rồi trở lại; ông lại thả một con quạ, nó bay đi và không trở về nữa. Biết rằng đất đã ráo, Utnapishtim ra khỏi tàu.
Một câu chuyện khác kể về chính Gilgamesh, có vẻ như được xây dựng trên những chiến công của một vị vua thực sự đã từng cai trị ở Lưỡng Hà lối 2700BC. Theo anh hùng ca này, Gilgamesh là một quân vương đầy thế lực với hai phần thần tính và một phần nhân tính. Ông đã làm cho các thần thấy khó chịu vì sự mạnh mẽ và tự phụ của ông. Vì thế, các vị thần đã biến một dã thú sống giữa các loài vật hoang dã thành một người đàn bà, và đặt tên là Enkidu, rồi đưa đến cho Gilgamesh. Gilgamesh và Enkidu đã cùng nhau thực hiện rất nhiều cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nhưng một ngày kia Enkidu chết. Gilgamesh khám ra sự ghê tởm và tàn khốc của cái chết khi nhìn thấy một con dòi rơi ra từ mũi Enkiku, nên ông lên đường cố gắng tìm cho ra sự phục sinh cho bạn và sự bất tử cho mình. Sau nhiều thử thách và khổ ải, và trải qua một chuyến đi khổ ải vào địa ngục, Gilgamesh được người hùng của trận Hồng thủy là Utnapishtim trao cho bí mật về trái trường sinh. Gilgamesh đã tìm được trái trường sinh này, nhưng khi người anh hùng dừng lại ngủ để lấy sức đi về quê hương, một con rắn đã đớp lấy trái trường sinh từ tay ông. Nhờ vậy con rắn lột da và hoàn đồng ngay lập tức, trong khi Gilgamesh than khóc cho nỗi khổ của chính mình và toàn nhân loại. Vì vậy, kể từ thời Gilgamesh, cứ mỗi lần rắn lột bỏ lớp da cũ, thì sự hồi sinh của rắn mãi nhắc nhở cho con người là họ phải già đi và phải chết. Tuy nhiên, thiên anh hùng ca cũng cho ta biết là dù các bậc anh hùng có chết đi, họ vẫn bất tử trong các công trạng của học được ghi chép lại. Những chi tiết trong câu chuyện này và trong trình thuật Sáng tạo-Sa ngã của Kinh Thánh Cựu Ước có những điểm tương đồng khá dễ nhận ra, nhưng dĩ nhiên, mỗi câu chuyện đều nhằm diễn tả những tư tưởng và thông điệp riêng của nó.
Ngoài những anh hùng ca, người Babylon còn có một nền văn chương khôn ngoan với khá nhiều thể loại như châm ngôn, tục ngữ, tranh luận. Trong đó nổi bật hai tác phẩm là ‘Bài thơ của người công chính đau khổ’ và ‘Thần luận của Babylon’. Hai bài thơ này tuy khó có thể so sánh với cái nhìn thiêng liêng sâu sắc và vẻ đẹp văn chương của sách Gióp trong Kinh Thánh Cựu Ước, nhưng dù sao nó cũng có những nét tương tự rất dễ nhận ra.
2.MẮT ĐỀN MẮT, RĂNG ĐỀN RĂNG
Một bộ luật rất nổi tiếng của cổ thời là bộ Luật Giao Ước của người Do Thái, được ghi lại trong bộ sách Torah. Người Do Thái có lẽ đã biết đến bộ luật Babylon tại quê hương Amorite của họ, dù có lẽ sau này họ cũng chịu ảnh hưởng của luật Hammurabi thông qua người Canaan là những người sống kề bên và đồng thời với họ. Hiện bảo tàng Louvre có lưu giữ một bản sao của luật Hammurabi được khắc vào một tấm đá đen, trên đó có hình chạm nổi vua Hammurabi đứng trước thần mặt trời Shamash, vị thần chủ trì trật tự và công lý trong vũ trụ. Bộ luật này đã lấy lại những yếu tố đã có của những bộ luật trước đó như luật Ur-Nammu, và đã cố gắng phát triển và đưa ra những chuẩn mực về việc thi hành công lý.
Bộ luật Hammurabi bao gồm gần 282 điều, được kết cấu kĩ càng hơn bất cứ bộ luật trước đó nào mà chúng ta đã biết. Những điều trong bộ luật này đều được trình bày dưới dạng ‘nếu một người làm gì đó, thì người ta sẽ làm gì khác tương xứng cho hắn’. Bộ luật công nhận ba giai cấp xã hội là quý tộc, người tự do và nô lệ. Bộ luật đã công khai thừa nhận vị thế dễ bị tổn hại của phụ nữ và trẻ em trong xã hội, “nếu vợ một người đàn ông bị bệnh, anh ta có thẻ lấy vợ khác nhưng vẫn phải cấp dưỡng cho vợ trước, và nếu muốn, bà ta có thể rời nhà chồng và giữu lại của hồi môn của mình” hay “một người đàn ông quá vợ không được tiêu xài của hồi môn của người vợ quá cố, mà phải để dành lại cho các con trai của bà”. Hammurabi cũng có những quy định về vấn đề hôn nhân thật tỉ mỉ và khá cân bằng trách nhiệm cho cả hai giới, thí dụ “nếu một người đàn ông đã đưa tiền thách cưới cho cha vợ tương lai và sau đó lại quyết định không lấy cô gái đó nữa thì cha cô gái có thể giữ lấy số tiền đó” hay “nếu một người đàn ông muốn li dị một người phụ nữ vô sinh thì phải hoàn trả của hồi môn cho cô ta”. Bộ luật cũng đã xử lý các vấn đề quyền sở hữu tài sản, thương mại và giao dịch, các thương tổn cá nhân và cách ứng xử nghề nghiệp.
Các hình phạt của bộ luật Hammurabi dựa trên nguyên tắc ăn miếng trả miếng rất khắc nghiệt, kể cả luật đền tội giữa các thành viên cùng giai cấp, vì thế mới có câu tục ngữ nổi tiếng về bộ luật Hammurabi là ‘mắt đền mắt, răng đền răng’. Nhưng vì những hình phạt dành cho các vi phạm không đồng bộ mà thay đổi tùy theo địa vị của phạm nhân nên đôi khi luật cũng cho phép bồi thường tiền thay cho nhục hình, nhất là khi ngươi bị hại ở một đẳng cấp thấp hơn, thí dụ “nếu một người phá hoảg mắt người khác, người ta sẽ phá hỏng mắt hắn”, nhưng “nếu một người phá hỏng mắt một người nô lệ hắn chỉ phải bồi thường nửa giá cho tên nô lệ” . Sự báo thù được xắp xếp ứng với tội ác: chặt cánh tay nào đã đánh cha mình, đâm mù mắt nào đã nhìn trộm bí mật. Những hình phạt kiểu này thường được gọi là ‘sự cắt xẻo theo pháp luật’, căn cứ trên số điều khoản nêu rõ sự chặt chi để trừng phạt cho nhiều loại vi phạm khác nhau, ta có thể tạm tưởng tượng ra là những chuyên gia hành nghê trong lĩnh vực này hẳn là khá bận rộn.
Một trong những thành tựu luật pháp chói sáng của bộ luật Hammurabi là đã xây dựng nền tảng cho truyền thống luật pháp án lệ cho các thời đại sau này. Nhiều học giả đã đồng ý với nhau rằng Bộ luật Cựu Ước của Israel đã chịu ảnh hưởng của bộ luật Hammurabi cả về nội dung và hình thức.
3.NHỮNG NGƯỜI CANH GÁC BẦU TRỜI
Ở đế chế Rome, các nhà chiêm tinh được gọi là Chaldaeus, theo tên những người đầu tiên thực hiện công việc bí ẩn này. Chaldae chính là tên của dân tộc Babylon cổ đại. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người Lưỡng Hà nguyên thủy tôn sùng bầu trời và bị cuốn hút bởi các vì sao. Những nguồn sáng lung linh kì bí của vòm trời Lưỡng Hà về đêm đã kích thích trí tưởng tượng các thầy pháp của Babylon Cổ, nhịp điệu cuộc sống đều đều bất biến trên mặt đất đã khiến khung cảnh những ánh hoa lửa xoay vần trên nền trời trở thành những cuộc xung đột và những chuyến phiêu lưu đầy xúc cảm của các thần linh.
Người Babylon cổ đại đã biến cả bầu trời của họ thành sân khấu cho trí tưởng tượng của họ về thần thoại. Sao Hôm, thiên thể rực sáng nhất trên vòm trời, chỉ thua mặt trời mặt trăng, đã trở thành con sư tử rực sáng lang thang trên trời từ đông sang tây. Thần El vĩ đại ghen tức vì một tinh tứ dám rực rõ và lên cao như vậy, đã kết liễu con sư tử này hết lần này đến lần khác khi bình minh tới. Kinh Thánh Cựu Ước đã thể hiện cái nhìn ấy trong hình ảnh Sao Hôm bị quật ngã vì sự kiêu ngạo của mình: “ Hỡi tinh tú rạng ngời, con của bình minh, chẳng lẽ ngươi đã từ trời sa xuống rồi sao? Này, kẻ chế ngự các dân tộc, ngươi đã bị hạ xuống đất rồi ư? Chính ngươi đã tự nhủ: ‘Ta sẽ lên trời: ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên cả các vì sao của Thiên Chúa; ta sẽ ngự trên núi Hội Ngộ, chốn bồng lai cực bắc. Ta sẽ vượt ngàn mây thẳm, sẽ nên như Đấng Tối Cao.’ Nhưng ngươi lại phải nhào xuống âm phủ, xuống tận đáy vực sâu.” (Is 14, 12-15).
Và nếu như hiện tượng vầng dương mọc rồi lặn tác động đến đời sống của mặt đất nhiều thế nào, thì hà cớ gì mà chuyển động của các đạo binh tinh tú trên trời lại không có những tác động tương tự. Một khi tin rằng trên trời các thần linh giao chiến, yêu đương, kéo bè kéo cánh và bày ra biết bao âm mưu, làm sao có thể hình dung rằng những biến cố ấy không tác động lên đời sống con người trên mặt đất! Sức mê hoặc của trời cao sinh ra một kho tàng chuyện kể dồi dào về bầu trời, người Babylon là một trong số những dân tộc đần tiên tạo dựng nên một khuôn khổ thần thoại cho những tương ứng vũ trụ ấy. Lý thuyết về sự tương ứng dần trở thành chiêm tinh học, tìm kiếm những liên kết mới giữa không thời gian, giữa chuyển động của các vật thể và các hoạt động đời sống hằng ngày của con người. Với chiêm tinh học, con người đã thực hiện bước nhảy đầu tiên tiến vào một cơ chế miêu tả phương thức những lực vô hình từ khoảng cách rất xa lại có thể định hình những chuyện nhỏ bé thường nhật. Đủ loại tiên đoán vè xã hội nảy nở ở Babylon. Người ta bói toán về những sự kiện lớn lao: hạn hán, binh đao, ôn dịch, mùa vụ…
Về lịch pháp, người Babylon cổ đại đã khởi đầu với âm lịch và khư khư giữ lấy nó, điều đó đã mang lại nhưng hệ quả quan trọng. Bởi lẽ bản thân âm lịch mang một khiếm khuyết khiến nó trở nên cực kì bất tiện khi sử dụng, do các chu kỳ biển kiến của mặt trăng và mặt trời không thông ước với nhau, khiến cho có sự ‘trôi dạt’ bất tiện của năm so với các mùa, nghĩa là việc các mùa cứ trôi lệch dần dần qua các tháng âm lịch. Trong khi mày mò cách thức đo chu kỳ các mùa bằng cách nhân lên các chu kỳ trăng, rút cuộc vào năm 432BC họ đã phát hiện ra cái gọi là chu kỳ Meton (lấy theo tên một nhà thiên văn) kéo dài 19 năm. Theo đó thì nếu ta sử dụng một chu kỳ 19 năm, trong đó 7 năm kéo dài thành 13 tháng mỗi năm, 12 năm còn lại giữ nguyên 12 tháng, thì họ có thể tiếp tục dùng các pha khả kiến của mặt trăng làm cơ sở cho lịch của mình. Quả thật, phép đặt tháng nhuận của người Babylon là một bước tiến lớn trong việc con người tự nhận thức về thời gian và lên kế hoạch cho cuộc sống của chính mình.
4.THẦY LANG ƠI HÃY CHỮA LẤY MÌNH ĐI
Phần lớn các tấm đất sét ghi chữ hình nêm của Lưỡng Hà đề cập đến các giao dịch hành chính, nhưng hàng ngàn bản khác ghi lại những ý tưởng về khoa học, toán học và y học. Sau khi nghiên cứu nhiều bản văn, các học giả phân chia các truyền thống y học Lưỡng Hà thành hai loại, đó là các trường phái ‘thầy bói’ và ‘thực hành’. Các văn bản y học của trường phái thực hành tuân theo các bố trí chính thức của văn cách thư lại, mỗi đoạn văn có chứa một loạt các ca bệnh được ghi theo mẫu chung giống nhau: “nếu một người bị ốm và có những triệu chứng sau…” hay “nếu một người bị đau như thế này ở chỗ này…”. Bản mô tả trình bày danh mục các triệu chứng đi kèm theo là chỉ dẫn sử dụng các loại thuốc cần thiết, cách bào chế, thời điểm và đường nạp thuốc. Khác với các đồng nghiệp thuộc phái thực hành, các thầy bói thực hiện khám lâm sàng trực tiếp để phát hiện các điềm báo: nếu thấy rắn chui vào giường người bệnh, điềm này cho thấy tiên lượng của bệnh là tốt, nhưng nếu nước tiểu có màu đỏ như màu rượu, đó là điềm bệnh sẽ trở nặng và gây đau đớn.
Mặc dù có nhiều điểm không chắc chắn khi giải thích các văn bản cổ nhưng đôi khi ta cũng có thể chẩn đoán được một số bệnh được ghi lại trên các tấm đất sét. Các thầy thuốc Lưỡng Hà cổ đại có lẽ đã quen thuộc với nhiều loại bệnh như sán máng, kiết lị, viêm phổi, động kinh. Các văn bản về dược liệu vùng Lưỡng Hà cho thấy ở đây người ta đã thành thạo các kỉ thuật hóa học tỉ mỉ để tinh chế các cây, con và khoáng chất để làm thuốc. Thuốc làm từ hạt, vỏ cây, và các phần khác của cây cỏ được hòa vào trong sữa hoặc bia, hoặc trộng với rượu, mật ong rồi cho bệnh nhân uống, hoặc trộn với mỡ để bôi bên ngoài.
Có chín đoạn văn trong bộ luật Hammurabi dành cho việc quy định phí khám bệnh và những chi tiết làm rõ mối quan hệ giữa tình trạng của người bệnh và tiền công cũng như hình phạt thích hợp, nếu việc chữa bệnh thất bại. Hình phạt nghiêm khắc khiến những thầy thuốc phải hết sức thận trọng khi thu nhận bệnh nhân và nên tránh những trường hợp vô vọng. Phí chữa bệnh cho một phẫu thuật cứu mạng hoặc đem lại thị lực cho một quý tộc là 10 shekel bạc, nó còn một nửa nếu là chữa cho người thường, và còn 2 shekel nếu là chữa cho nô lệ. Nhưng nếu thầy thuốc chữa bệnh mà làm một quý tộc chết thì phải chặt tay, nếu làm chết một nô lệ thì phải bù lại một nô lệ khác.
Vấn đề suy dinh dưỡng thường được phát hiện trong các bản văn đất sét vùng Lưỡng Hà về y học rõ ràng là có liên quan tới các đợt đói kém theo chu kì vốn đã được đề cập ở các văn bản khác, nhưng ngay cả khi nguồn thực phẩm được cung cấp khá đầy đủ, thì chế độ ăn hằng ngày cũng có phần đơn điệu và mất cân bằng. Khi so sánh các bộ xương người nông dân Lưỡng Hà với các bộ xương của các người săn bắt hái lượm ở những vùng đất năng sản, ta thấy rằng những người nông dân đầu tiên thường nhỏ con hơn và yếu ớt hơn, dù tính theo giờ thì họ phải làm việc nhiều hơn, theo Jared Diamond, đấy chính là cái bẫy mà đời sống sản xuất lương thực đã kéo con người vào.
5.CON ĐƯỜNG NÀY DẪN TỚI ĐÂU?
Sau khi đã xem xét tất cả những điều trên, ta đã biết được nền điện ảnh, pháp trị, thiên văn và y học hiện đại của chúng ta đến từ đâu: người Lưỡng Hà đã đặt dấu chân tiên phong của họ trong tất cả những lãnh lực đó. Chúng ta thực sự đã đi xa đến đâu trong những lãnh vực ấy, một số người trong các bạn hiểu rõ hơn tôi. Nhưng có vài vấn đề đặt ra ở đây là: Liệu tất cả những việc đó nảy sinh và phát triển có vì theo đuổi một mục đích nào đó không? Liệu những mục đích đó, nếu nó có, thì mỗi thứ có mục đích riêng hay chúng đều quy hướng về một mục đích phổ quát và nhất quán? Liệu rằng chúng ta sẽ đi theo hướng nào và đi xa đến đâu trên con đường theo đuổi mục đích đó, nếu mục đích đó thực sự có tồn tại?
Thật sự là rất khó nghĩ, nhưng ai bảo cuộc đời là đơn giản nào?
Lạc Vũ Thái Bình
Huế, 03-2021
Thư mục tham khảo
-Phạm Hữu Quang, Dẫn nhập Thánh Kinh, Nxb Tôn Giáo, TPHCM, 2018
-Lois N. Magner, Lịch sử y học, Nxb Trẻ, TPHCM, 2017
-Mortimer Chamber, Lịch sử văn minh Phương Tây, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2004
-Daniel J. Boorstin, Những nhà khám phá, Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2016
-Jared Diamond, Súng, vi trùng và thép, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2007

Gilgamesh đang ôm một con sư tử trong tay trái, ừ, Samson cũng vậy mà Hercules cũng vậy, có vẻ như mọi anh hùng đều không sợ sư tử, bất kể đực cái

Cấu trúc kiểu mẫu cho một câu trong bộ luật Hammurabi là ‘nếu một người đàn ông…’; theo một số học giả, thực ra không cần đọc văn bản ta vẫn có thể nhận ra tính chất trọng nam của bộ luật cổ đại này. Đó là nếu bạn hiểu ý của các học giả đó

Thực ra cũng không quá khó hiểu khi người Lưỡng Hà lại nhìn lên sao trời vào ban đêm và mơ mộng, ừ thì có gì khác để làm nữa đâu
