Các tên gọi này xuất hiện đầu tiên vào khoảng năm 111TCN khi nhà Hán diệt nhà Triệu, thu phục được Âu Lạc, chia phương Nam làm 9 quận, trong đó có Cửu Chân và Nhật Nam.
Sử học của Trung Quốc và Việt Nam xác định khu vực Cửu Chân và Nhật Nam đời Hán kéo dài từ vùng giáp giới Ninh Bình – Thanh Hóa trở vào, có thể đến Phú Yên. Nhật Nam ở phía nam Cửu Chân và có huyện phía nam là Tượng Lâm mà sau này tách ra thành nước Lâm Ấp.
Điều này cho thấy một sự bất hợp lí về khả năng của người Hán vươn tới một địa bàn quá xa như vậy, trong khi với hai quận Châu Nhai và Đạm Nhĩ trên đảo Hải Nam thì họ phải từ bỏ sau 65 năm chiếm giữ vì không thể quản được.
Một số chi tiết trên cổ sử là những manh mối để lần ra một sự thật khác hẳn.
1. Tương quan vị trí Cửu Chân, Dạ Lang và Ba Thục
– Sử ký Tư Mã Thiên chép, năm Nguyên Đỉnh thứ 5 (112TCN), nhà Hán tổng tấn công Nam Việt. Một đạo quân từ phía tây bắc do Trì Nghĩa hầu “đem những tội nhân ở Ba Thục, phát quân Dạ Lang, xuôi dòng Tường Kha. Tất cả cùng tụ họp ở Phiên Ngung” (1).
Vậy Dạ Lang giáp với Ba Thục.
– Hậu Hán thư Q86 – Nam man, Tây nam Di liệt truyện chép: Năm Vĩnh Sơ nguyên niên (năm 107CN) “người man di Dạ Lang ngoài biên Cửu Chân đem đất xin nội thuộc, mở rộng địa giới thêm một ngàn tám trăm bốn mươi dặm” (2).
– Hậu Hán thư, phần Nhâm Diên truyện chép đầu niên hiệu Kiến Vũ nhà Hán, Nhâm Diên ở Cửu Chân cai quản và giáo hóa dân Lạc Việt. Có nhiều công tích. Những nơi man di ngoài cõi như nước Dạ Lang cũng mộ nghĩa mà giữ yên quan ải. (3)
Vậy Cửu Chân giáp với Dạ Lang.
– Tấn thư – Đào Hoàng truyện chép Nam Trung Giám quân nhà Tấn sai Dương Tắc cùng bọn Đổng Nguyên Thái thú Cửu Chân…từ Thục tiến ra đánh lấy Giao Chỉ (Thục lúc này đã bị nhà Tấn tiếp quản), sau bị Hoàng tiêu diệt (4). Lại thêm sự kiện Công tào quận Cửu Chân là Lý Tộ đem quận theo nội phụ nhà Tấn, mà Đào Hoàng cũng phải cất quân đánh dẹp (5).
Vậy thì Cửu Chân còn giáp với Thục.
Chứng tỏ Ba Thục, Cửu Chân và Dạ Lang tiếp giáp lẫn nhau. Từ Dạ Lang có thể đến sông Tường Kha, một phụ lưu phía bắc của sông Tây Giang, chứng tỏ Dạ Lang phải nằm về phía đông của Ba Thục và phía bắc của Quảng Tây. Từ các thông tin này, dựa vào Ba Thục là khu vực đã được biết rõ ràng, có thể xác định vị trí một cách tương đối, là Dạ Lang ở vùng phía nam của khu vực ngày nay là Quý Châu và lân cận (điều này hiện nay cũng được nhìn nhận khá thống nhất). Do đó, vị trí của Cửu Chân là ở vùng đông bắc Vân Nam và có thể tới tây bắc Quảng Tây ngày nay.
2. Tương quan vị trí Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam
Những chi tiết trong cổ sử đã cho thấy Giao Chỉ và Cửu Chân là tiếp giáp nhau. Nhật Nam cũng tiếp giáp với Cửu Chân.
Tuy nhiên, Hậu Hán thư có chi tiết cho thấy một sự thật bất ngờ, là Nhật Nam lại cũng tiếp giáp với Giao Chỉ. Trong đề xuất của Lý Cố với vua Hán về việc xử lý biến loạn ở Nhật Nam năm 137 có đoạn “Hiện giờ Nhật Nam quân mỏng lương hết, thủ còn không nổi, chiến càng chẳng nên. Khá cho dời tất cả lại dân lên phía bắc dựa vào Giao Chỉ, sau khi việc yên ắng lại sai quay về bản quán” (6).
Từ các định vị về Giao Chỉ và Cửu Chân thì vị trí của Nhật Nam phải là vùng nam Vân Nam ngày nay, có thể thêm cả vùng tây bắc Việt Nam và bắc Lào.
Tại sao dời dân Nhật Nam đi lên phía bắc lại dựa vào Giao Chỉ? Bởi vì, như tác giả bài viết này đã chứng minh ở phần trước, địa bàn Giao Chỉ thời cổ còn bao gồm cả một khu vực rộng lớn ở Quảng Tây. Xem trên bản đồ ngày nay về vị trí Quảng Tây và Vân Nam, thì khu vực đông nam Vân Nam đi lên phía bắc cũng có thể vào Quảng Tây.
Vậy sự mặc định Cửu Chân và Nhật Nam thời Hán là khu vực miền trung Việt Nam ngày nay là hoàn toàn sai lầm.
Thực tế, vào những thế kỷ đầu công nguyên trở về trước, giao thông từ miền bắc vào miền trung Việt Nam không thuận tiện do tuyến đường bộ đi qua miền Hà Nam Ninh còn chưa hình thành, đất ở đó còn là sình lầy hoặc thậm chí còn nằm dưới biển.
Trong bức thư của Đào Hoàng gửi Tấn đế có đoạn “Lại thêm đất Nam Quận cách châu đến hơn ngàn dặm đường biển, bên ngoài lại còn cách Lâm Ấp bảy trăm dặm” (7), chứng tỏ từ trị sở Giao Châu ở Liên Lâu đi vào phía nam thì phải sử dụng đường biển. Khoảng cách 1000 dặm đến trị sở Nam quận, theo ước lượng tương đối thì điểm này ở vào quãng ven biển Nghệ Tĩnh. Người ta đã diễn giải Nam quận (hay nam quận) là quận Nhật Nam, đó là một sự gượng ép thiếu cơ sở.
Như vậy thì Lâm Ấp đời Tấn cũng không thể là huyện Tượng Lâm đời Hán được.
Thế nhưng từ nửa sau thế thứ 4 về sau thì vị trí của Cửu Chân và Nhật Nam thể hiện trên sử sách đúng là ở khu vực trung bộ Việt Nam, trong khi không có ghi nhận nào về sự tồn tại của hai quận này ở Vân Nam cả.
Điều này thực ra hoàn toàn có thể giải thích.
Đầu thế kỷ thứ 4, cũng ở thời đại nhà Tấn, Vân Nam đã trỗi dậy và tách ra khỏi Trung Quốc, duy trì độc lập mãi đến giữa thế kỷ 13 họ mới bị người Mông Cổ chiếm đóng, một bước đệm trước khi nhập vào Trung Quốc. Từ bỏ vùng đất đó, nhà Tấn đã đặt hai địa danh có tính chất biên viễn đặt cho hai khu vực mới ở quãng trung bộ Việt Nam mà họ vừa sát nhập được.
Tấn thư không ghi nhận điều này. Có thể đã có những khiếm khuyết tư liệu và sự ngộ nhận, bởi bộ sách này đến đời Đường, sau ba thế kỷ Trung Quốc liên tục thay đổi triều đại, thì mới được biên soạn. Tuy nhiên cũng có thể không phải nhầm lẫn mà là do chủ ý.
Ngoài Tấn thư thì còn có Lương thư, Cựu Đường thư, là những tài liệu sớm nhất xác định Cửu Chân, Nhật Nam ở khu vực miền trung Việt Nam, qua việc xác định Lâm Ấp (tức là nước Chiêm Thành sau này) là huyện Tượng Lâm (quận biên giới phía nam của Nhật Nam) đời Hán. Các bộ sách này đều do các học giả kiêm nhà chính trị đời Đường, một triều đại hùng mạnh ở Trung Quốc và luôn có ý thức bành trướng lãnh thổ, biên soạn. Có thể họ đã nảy sinh chủ ý gán các khu vực mới thành đất sở hữu từ xa xưa, tạo lý do chính đáng cho việc thôn tính.
Cửu Chân và Nhật Nam từ thế kỷ thứ 4 không chỉ là vùng đất mới đối với người Hán mà còn đối với người Kinh Việt.
Nhận thức mới nảy sinh rất nhiều vấn đề cho giới sử học.
PS: Những sử liệu được sử dụng để đưa ra diễn giải trên đây đều được lưu truyền khá phổ biến, và không phải quá khó để nhìn ra những vấn đề, vậy tại sao các sử gia Việt xưa nay không xem xét. Tôi tra các bộ sử xưa thì chỉ thấy tác giả Ngô Thì Sĩ nhận xét, trong công trình Đại Việt Sử Ký Tiền biên, rằng những địa danh đời Tấn và đời Hán có thể khác nhau. Ngô Thì Sĩ chỉ dừng lại ở nhận xét đó mà thôi. Có thể ông không có đủ tư liệu, nhất là những bản đồ tốt như ngày nay có được, để hình dung một các rõ ràng. Ngoài ra, sự cản trở còn có thể xuất phát từ tinh thần tự tôn mang tính chất địa phương của các học giả và ý chí chính trị của vua chúa.
Bàn về vấn đề này thì không thể tránh khỏi những phiền phức, nhưng cứ né tránh thì thật mâu thuẫn với ước muốn về một nền sử học chân chính.
Trích dẫn, chú thích
1. Sử ký của Tư Mã Thiên – Q113 – Nam Việt Úy Đà liệt truyện, theo An Nam truyện, Châu Hải Đường soạn dịch, Nxb HNV, xb 2018, tr 181
2. Hậu Hán thư Q86 – Nam man, Tây nam Di liệt truyện, An Nam truyện, sđd, tr 189
3. Hậu Hán thư, phần Nhâm Diên truyện, theo An Nam truyện, sđd, tr 194,195
4. Tấn thư – Đào Hoàng truyện, theo An Nam truyện, sđd, tr 201,202,203
5. Tấn thư – Đào Hoàng truyện, theo An Nam truyện, sđd, tr 204
6. Hậu Hán thư Q86 – Nam man, Tây nam Di liệt truyện, An Nam truyện, sđd, tr 190
7. Tấn thư – Đào Hoàng truyện, theo An Nam truyện, sđd, tr 204
