Sơ Lược Bối Cảnh Lịch Sử
Nằm giữa hai siêu cường Nga và Đức, Ba Lan luôn luôn hứng chịu những bất hạnh nghiệt ngã do các thế lực chính trị của hai quốc gia này chèn ép.
Cách đây hơn 200 năm, Ba Lan đã bị đế quốc Nga xâm lăng rồi bị xóa tên trên bản đồ thế giới vào năm 1795.
Phải hơn một thế kỷ sau, Ba Lan mới được tái sinh nhờ công lao của vị anh hùng dân tộc lúc đó là tướng Josef Pilsudski khởi binh chống lại chế độ Nga Hoàng dưới triều đại vua Nicolas II.
Sau thời gian độc lập ngắn ngủi, ngày 01/09/1939, Hitler đã xua quân tiến chiếm Ba Lan từ hướng Tây, trong khi đó, Stalin cũng đưa Hồng Quân tiến vào Ba Lan từ hướng Đông, nhưng sau đó Nga rút quân, để lại Phát xít Đức chiếm đóng cho đến năm 1945.
Suốt trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến, nhân tài của Ba Lan đã bị Đức Quốc Xã và Cộng sản Nga tàn sát gần hết.
Ngày 21/04/1945, một nhóm cộng sản Ba Lan do đảng Cộng sản Nga huấn luyện và đỡ đầu từ thập niên 30 đã họp ở thành phố Chelm, thành lập chính phủ kháng chiến, bất chấp chính phủ lưu vong Ba Lan lúc đó đang tỵ nạn Đức Quốc Xã tại Anh.
Vì thiếu lực lượng và lại sợ phe cộng sản nắm hết quyền bính nên các phe phái khác (kể cả chính phủ lưu vong ở Luân Đôn), đành miễn cưỡng tham gia vào chính phủ liên hiệp với đảng Cộng sản Ba Lan sau đó.
Bằng những thủ đoạn khủng bố và trấn áp, phe cộng sản đã tiêu diệt gần hết tiềm lực của các tổ chức khác trong chính quyền liên hiệp này.
Năm 1946, Cộng sản Ba Lan dàn dựng ra cuộc trưng cầu dân ý để vừa chính thức hóa vai trò lãnh đạo của mình, vừa quốc hữu hóa các xí nghiệp kỹ nghệ lẫn cơ quan truyền thông.
Trong hai năm 1947 và 1948, chính quyền cộng sản đã đưa ra một số pháp lệnh để giải tán các đảng phái khác và ép những nhân vật trong đảng Xã Hội Ba Lan gia nhập đảng Cộng sản, lúc đó đã đổi tên thành đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (Polish United Worker’s Party).
Mặc dù được đảng Cộng sản Liên Xô huấn luyện và đỡ đầu trong việc cướp chính quyền sau khi Đức Quốc Xã sụp đổ, nhưng với quá khứ bị Nga đô hộ gần 100 năm, khiến những người Cộng sản Ba Lan vẫn luôn có khuynh hướng chống Nga, và cố gắng tìm cách để thoát ra khỏi sự chi phối của nước này.
Điều thấy rõ nhất là sau khi Stalin chết (1953), trong khoảng thời gian từ 1953 – 1955, hơn 100 ngàn tù nhân chính trị được phóng thích, bắt đầu giai đoạn tìm về dân tộc của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan.
Ngoài ra, nhân vụ Nikita Khruschev, Đệ nhất bí thư đảng Cộng sản Liên Xô tố giác những tội ác của Stalin, trong Đại hội đảng Cộng sản lần thứ 20 ngày 25/02/1956, quần chúng và một số đảng viên Cộng sản Ba Lan có khuynh hướng chống Nga đã tổ chức cuộc nổi dậy ở Poznan, đưa ra khẩu hiệu: “Bánh Mì – Tự Do – Độc Lập” chống chính quyền độc tài Ba Lan, và đòi tách khỏi sự chi phối của Liên Xô.
Mặc dù cuộc nổi dậy bị Hồng Quân Liên Xô đàn áp, nhưng sự bất mãn đối với chính quyền Cộng sản Ba Lan và xu hướng chống Liên Xô vẫn còn tiềm ẩn mạnh mẽ trong lòng người dân.
Từ năm 1970, do những thất bại trong chính sách công nghiệp hóa, tình hình kinh tế của Ba Lan liên tục bị khủng hoảng, ngân sách thâm thủng trầm trọng.
Chính quyền Gomulka quyết định tăng giá thực phẩm lên đến gần 60% khiến cho công nhân bất mãn và họ đã tổ chức các cuộc đình công chống đối.
Những cuộc đình công đã nhanh chóng lan rộng trên toàn quốc, tạo áp lực mạnh lên đảng Công Nhân Thống Nhất, khiến cho chính quyền Gomulka sụp đổ, sau đó được thay thế bởi chính quyền Edward Gierek.
Được Liên Xô cho phép, chính quyền Edward Gierek đã thực thi chính sách mở cửa với các nước phương Tây, mục đích là để được vay tiền nhằm gia tăng khả năng sản xuất và tiêu thụ của dân chúng.
Nhưng chính sách cải tổ của Gierek cũng dẫn đến thất bại.
Tình trạng tham nhũng tràn lan trong đảng khiến cho khoản tiền vay để thực hiện các dự án bị tiêu xài hoang phí, không có dự án nào được hoàn tất đúng nghĩa, nợ ngoại trái thì càng lúc càng nhiều, đời sống người dân thay vì được cải thiện lại càng thêm đói khổ.
Năm 1976, chính quyền Gierek quyết định tăng giá sinh hoạt một lần nữa. Lần này chính quyền đã chặn trước những nơi có khả năng tổ chức đình công, nên mặc dù công nhân rất bất mãn nhưng không có cuộc đình công nào xảy ra.
Mặc dù tăng giá nhưng chính quyền Gierek vẫn không giải quyết được tình trạng thâm thủng ngân sách, vì thế, vào ngày 01/07/1980 lại tiếp tục cho tăng giá thịt và những sản phẩm chế xuất bằng thịt, điều này khiến cho công nhân và dân chúng không còn chịu đựng được nữa.
Những cuộc đình công phản đối của công nhân tại thành phố Chelm vào ngày 02/07/1980 đã mở đầu cho một loạt những biến cố đưa đến sự tan rã chế độ cộng sản Ba Lan vào một thập niên sau đó.
Công Đoàn Đoàn Kết Ra Đời
Cuộc đình công chống tăng giá thịt của công nhân tại thành phố Chelm đã tác động mạnh mẽ lên các công nhân ở thành phố Gdansk, nằm ở ven biển Baltic.
Ngày 14/08/1980, lấy lý do chống đối việc ban quản trị đã đuổi việc một nữ công nhân phụ trách điều khiển giàn cần trục tự động, những công nhân làm việc tại xưởng đóng tàu Lênin tại Gdansk đã chiếm công trường và tổ chức đình công.
Đến ngày 16/08, công nhân tự ý thành lập Ủy ban đình công (MKS) nhằm bảo vệ quyền lợi công nhân.
Ngày 18, Ủy ban đình công (MKS) đã đưa ra 21 yêu sách đòi hỏi nhà cầm quyền cộng sản Ba Lan phải đáp ứng những điều kiện như công nhận quyền đình công, thừa nhận quyền lập nghiệp đoàn, quyền tự do hội họp…
Ngày 22/08, chính quyền Gierek phải cử một số cán bộ đến thảo luận về những yêu sách của Ủy ban đình công ở Gdansk.
Ngày 24/08, nhằm vận động giới trí thức trong nước hậu thuẫn cuộc đấu tranh của tầng lớp công nhân, Ủy ban đình công (MKS) đã thành lập Tiểu ban chuyên môn, mời những nhà trí thức tham gia với tư cách cố vấn.
Ngày 29/08, những công nhân ở hai thành phố Poznan và Shilonsk cũng lần lượt đình công để ủng hộ cuộc đấu tranh của Ủy ban đình công tại Gdansk.
Sau mấy ngày thảo luận và tranh cãi về nhiều vấn đề, cuối cùng, đại diện chính quyền – Gierek, đã ký một thỏa ước với Lech Walesa – đại diện Ủy ban vào ngày 01/09/1980, đồng ý thực thi 21 yêu sách của Ủy ban như chấp nhận quyền tự do lập nghiệp đoàn, tự do nhóm họp và tự do đình công…
Đây là thắng lợi đầu tiên của công nhân Ba Lan.
Sự kiện này đã tạo nên một hình thái đấu tranh mới cho hàng ngũ thanh niên – sinh viên Ba Lan, vào ngày 02/09, Liên Minh Thanh Niên Độc Lập được thành lập tại thủ đô Warsaw.
Ngày 04/09, Ủy ban đình công (MKS) đã cải tên thành Công Đoàn Đoàn Kết, bầu Lech Walesa làm Chủ tịch, văn phòng đặt tại xưởng đóng tàu Lênin ở thành phố Gdansk.
Sự ra đời của Công Đoàn Đoàn Kết đã thu hút đông đảo công nhân, trí thức và quần chúng Ba Lan tham gia. Nó không chỉ là một nghiệp đoàn độc lập nằm ngoài chính quyền, mà còn là một phong trào công nhân đòi quyền tự do dân chủ.
Khi đó, Đức Hồng Y gốc Ba Lan vừa trở thành Đức Giáo Hoàng John Paul II (1978), vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo La Mã đã ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết một cách công khai, khiến cho giới công nhân, quần chúng nhiệt liệt tin tưởng vào thế đấu tranh chính nghĩa của Công Đoàn Đoàn Kết.
Nhờ vậy mà trong giai đoạn đầu của thập niên 80, số thành viên tham gia Công Đoàn đã chiếm gần 1/3 dân số Ba Lan, làm cho nó trở thành một lực lượng chính trị đáng kể.
Sự kiện nhà cầm quyền Cộng sản Ba Lan công nhận tính hợp pháp của Công Đoàn Đoàn Kết là một biến cố lớn, tạo nên sự quan tâm cho Hoa Kỳ và các nước phương Tây.
Nhưng vì lo ngại những phản ứng đàn áp của Liên Xô nên các nước phương Tây, đặc biệt là Tổng Thống Hoa Kỳ Jimmy Carter (1976-1980) đã chỉ giữ thái độ im lặng, coi đây là vấn đề nội bộ của Ba Lan.
Tuy nhiên, Tổng thống Carter vẫn bí mật cho lệnh theo dõi phản ứng của Liên Xô đối với sự ra đời của Công Đoàn Đoàn Kết.
Sau khi Tổng thống Reagan lên cầm quyền, cơ quan CIA đã báo cáo rằng, có thể Liên Xô sẽ hỗ trợ cho đảng Cộng sản Ba Lan áp dụng biện pháp mạnh để đàn áp Công Đoàn Đoàn Kết.
Công Đoàn Đoàn Kết Bị Đàn Áp
Ngày 14/09/1980, Trung ương đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (PUWP) đã buộc Edward Gierek từ chức Thủ tướng, đề cử Kania lên thay thế.
Nhưng Thủ tướng Kania không ổn định được tình hình, cho nên đến tháng 02/1981, Trung ương đảng đề cử Wojciech Jaruzelski, thuộc phe bảo thủ, lên làm Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng.
Sau khi lên cầm quyền, Jaruzelski đã lập ra Hội đồng Quân sự Cứu quốc gồm 20 tướng lãnh (cơ chế này không quy định trong hiến pháp) do bản thân làm chủ tịch, với mục đích ngăn ngừa đảo chánh và ổn định tình hình.
Ngày 13/12/1981, Jaruzelski ban hành lệnh “thiết quân luật” trên toàn quốc.
Theo lệnh này, Jaruzelski đã cho đóng cửa biên giới, cấm phát hành sách báo, cấm mọi cuộc đình công, biểu tình và cấm dân chúng rời khỏi nhà vào ban đêm.
Thủ tướng Wojciech Jaruzelski không những ra lệnh đóng cửa trụ sở của Công Đoàn; bắt giam Lech Walesa cùng bộ tham mưu của ông lúc đó, là những nhân vật có tên tuổi như Adam Michnik, Luật sư Tadeusz Mazowieckj, Sử gia Bronislaw Geremek; mà còn quản thúc luôn cả cựu Thủ tướng Edward Girerek và những cán bộ đảng viên có liên hệ đến việc chấp nhận 21 yêu sách của Công Đoàn Đoàn Kết vào năm 1980.
Đến ngày 09/10/1982, chính quyền Jaruzelski đã đặt Công Đoàn Đoàn Kết ra ngoài vòng pháp luật.
Trong khi đó, để chống lại lệnh thiết quân luật và sự đàn áp Công Đoàn Đoàn Kết của chính quyền Jaruzelski, Tổng thống Reagan đã cho triệu hồi đại sứ Hoa Kỳ tại Ba Lan về nước, và tuyên bố cấm vận kinh tế Ba Lan vào ngày 24/12/1981.
Sau đó, Hoa Kỳ đã kêu gọi Nhật Bản và các nước Tây phương quyết định tương tự như Hoa Kỳ để bảo vệ Công Đoàn Đoàn Kết.
Ngày 02/09/1982, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ đã đưa ra chính sách mới về Đông Âu, với mục tiêu giúp cho các nước này tiếp cận với Tây Âu nhằm tách khỏi sự chi phối của Liên Xô.
Lúc đầu, Hoa Kỳ lo sợ Liên Xô sẽ đưa quân vào Ba Lan nhưng vào năm 1982, cơ quan CIA đã đưa ra bản phân tích cho rằng Liên Xô hài lòng với lệnh thiết quân luật và kế hoạch đưa Công Đoàn Đoàn Kết ra khỏi vòng pháp luật của chính quyền Jaruzelski, cho nên Liên Xô sẽ không đem quân vào Ba Lan.
Với sự phân tích của cơ quan CIA, Tổng thống Reagan bớt lo sợ và tăng cường áp lực lên chính quyền Jaruzelski.
Nhờ những áp lực của các quốc gia phương Tây và tòa thánh Vatican, Thủ tướng Wojciech Jaruzelski đã phải chấm dứt lệnh “thiết quân luật” vào tháng 12/1982 và ra lệnh phóng thích Walesa cùng các thành phần lãnh đạo Công Đoàn.
Tuy nhiên, vì hạ tầng cơ sở bị tê liệt do sự khủng bố của cơ quan mật vụ, hoạt động của Công Đoàn Đoàn Kết từ đó trở nên suy yếu.
Mặc dù uy tín cá nhân của Walesa tăng lên và được Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao Giải Nobel Hòa Bình năm 1983, nhưng ông đã không lấy lại được khí thế của Công Đoàn, khiến cho hơn một nửa số thành viên phải ngưng hoạt động hoặc xa lánh Công Đoàn vào những năm kế tiếp.
Nhất là vào năm 1987, khi đảng Cộng sản Ba Lan tung ra chính sách mua chuộc, dụ dỗ và trả tự do cho những người bị chế độ bỏ tù vì có liên quan đến Công Đoàn Đoàn Kết trước đó, tiềm lực của Cộng Đoàn suy giảm, nhưng Lech Walesa và bộ tham mưu của Công Đoàn Đoàn Kết vẫn không bỏ cuộc.
Tháng 5/1987, Công Đoàn lại tổ chức cuộc đình công đòi chính quyền Jaruzelski tái công nhận các quyền tự do mà chính quyền Gierek trước đây chấp thuận, nhưng đã bị đàn áp một cách dã man hơn các lần trước, khiến Lech Walesa phải tuyên bố ngưng cuộc đình công.
Hành động này của Walesa đã tạo nên sự bất mãn của một số nhân vật lãnh đạo Công Đoàn ở các địa phương. Họ cho rằng Walesa quá sợ Cộng sản và đòi truất phế ông ta.
Đây là giai đoạn bi đát nhất của Lech Walesa, vì nội bộ Công Đoàn Đoàn Kết bị phân rã cùng với chính sách mua chuộc của đảng Cộng sản, khiến cho Walesa không còn khả năng kiểm soát và điều động Công Đoàn một cách thống nhất như trước.
Đình Công Đưa Đến Sự Sụp Đổ Nội Các Mesnel
Trong khi Công Đoàn Đoàn Kết bị tê liệt, nội tình của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (PUWP) cũng rối rắm vì sự xung đột giữa hai phe bảo thủ và cải cách trong đảng.
Phe cải cách thắng thế và ép buộc Jaruzelski từ chức Thủ tướng, Trung Ương Đảng Công Nhân Thống Nhất đề cử Mesnel lên thay thế.
Nội các Mesnel đưa ra một số chương trình cải cách, nhưng lại dùng thủ đoạn bắt Quốc hội Ba Lan thông qua đạo luật “Quyền Tối Khẩn” cho nội các vào ngày 11/05/1988.
Mục đích là để giúp cho Mesnel có thể đưa ra những pháp lệnh phù hợp trong khuôn khổ cải cách để làm lợi cho đảng cầm quyền.
Nhận thấy ý đồ của đảng cầm quyền không thực sự muốn tiến hành chương trình cải cách một cách nhanh chóng và dứt khoát, mà ngược lại còn tung pháp lệnh nhằm câu giờ những biện pháp cải cách chính trị, Lech Walesa đã kêu gọi Công Đoàn Đoàn Kết thực hiện cuộc đình công quy mô trên toàn quốc kéo dài từ tháng 4 qua đến tháng 8/1988.
Nội các Mesnel dùng “Quyền Tối Khẩn” để ngăn chặn cuộc đình công, nhưng đã thất bại.
Trước tình trạng sinh hoạt xã hội bị tê liệt do cuộc đình công của Công Đoàn gây ra, phe cải cách một lần nữa áp lực Trung ương đảng phải trực tiếp đối thoại với Công Đoàn để ngưng cuộc đình công.
Do đó, trong Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan nhóm họp vào ngày 13/06/1988, Tổng bí thư Đảng Wojciech Jaruzelski tuy không công nhận Công Đoàn Đoàn Kết là một tổ chức hợp pháp, nhưng vẫn tuyên bố chấp nhận tham dự Hội Nghị Bàn Tròn với đại diện Công Đoàn để giải quyết các yêu sách.
Ngày 26/08/1988, Bộ trưởng Nội vụ Czeslaw Kiszczak đã tuyên bố nếu Công Đoàn chấp hành luật pháp và hiến pháp hiện hành của Cộng Hòa Nhân Dân Ba Lan, thì chính quyền sẽ sẵn sàng thoả mãn các yêu sách của Công Đoàn mà không đưa ra một điều kiện nào.
Ngày hôm sau, Walesa đã công bố bản tuyên cáo đồng ý với những đề nghị từ bên phía chính quyền.
Ngày 31/08, Walesa đã gặp gỡ Bộ trưởng Nội vụ Czeslaw Kiszczak, sau đó kêu gọi công nhân toàn quốc ngưng cuộc đình công.
Trong khi đó, đảng Công Nhân Thống Nhất (PUWP) cũng cấp tốc tổ chức Hội nghị Trung Ương đảng kỳ 8 sớm hơn từ ngày 27 đến 28/08 nhằm đối phó tình hình.
Trong Hội nghị này, Trung Ương đảng chính thức ra quyết định tiến hành cải cách kinh tế và chính trị, đồng thời biểu quyết chấp thuận việc tiến hành đối thoại với Công Đoàn Đoàn Kết.
Như vậy, mặc dù buộc Quốc hội thông qua đạo luật “Quyền Tối Khẩn”, nội các Mesnel đã không thể chặn đứng cuộc đình công của Công Đoàn và cũng không thực hiện được cuộc cải cách theo ý của đảng cầm quyền, nên cuối cùng Quốc Hội đã biểu quyết bất tín nhiệm nội các, Mesnel đã phải từ chức.
Hội nghị lần thức 8 của Trung ương đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan quyết định đề cử Rakowski làm Thủ Tướng và “thông qua” đề cương cải cách kinh tế và chính trị của Bộ chính trị.
Rakowski là lá bài cuối cùng của đảng Công Nhân Thống Nhất. Ông là người thuộc nhóm cải cách và là Phó Thủ tướng thời Jaruzelski làm Thủ tướng (1981), từng tham dự các cuộc đàm phán trước đây với Công Đoàn Đoàn Kết.
Sau khi được Quốc hội chỉ định làm Thủ tướng vào ngày 27/09, Rakowski đã thực hiện những cuộc thảo luận với nhiều chức sắc tôn giáo, văn hóa và cả một số nhân vật “ôn hòa” trong Công Đoàn Đoàn Kết để thành lập nội các liên hiệp, nhưng Công Đoàn không chịu tham gia.
Ngày 13/10, Rakowski đã trình bày trước Quốc hội một số dự định trong việc cải cách chính trị – kinh tế và để tạo sự chú ý của dư luận vào chương trình cải cách của mình, Rakowski phê bình gay gắt kế hoạch cải cách kinh tế thất bại của nội các Mesnel trước đó.
Đòn tâm lý này khiến đông đảo quần chúng “ngưng chiến” với chính quyền, chờ đợi khả năng cải thiện tình hình của nội các mới.
Đây là kỹ thuật xoa dịu tình hình để mong vô hiệu hóa sức mạnh đấu tranh của Công Đoàn và quần chúng. Kỹ thuật này đã từng được một số đảng Cộng sản ở Hungary và Bulgaria áp dụng để mua thời gian suy tính một kế sách khác.
Trong phiên họp nội các vào ngày 18/10, Rakowski ra chỉ thị thành lập Hội Nghị Kinh Tế Cấp Bộ, để tiến hành thực hiện các kế hoạch cải cách.
Sau đó, nội các Rakowski cho trình Quốc hội dự luật “Tăng Cường Hoạt Động Kinh Tế” và một số những nội dung pháp lệnh khác để tiến hành năm chương trình cải tổ của đảng.
Các chương trình cải tổ này đều hướng đến một nền kinh tế thị trường tư bản hàng hóa, giảm dần sự can thiệp của chính quyền vào các hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, dự luật này đã không thuyết phục được các dân biểu vì những mâu thuẫn trong cách thi hành, nên không được Quốc hội thông qua.
Khi Quốc hội Ba Lan chất vấn một số điều khoản then chốt trong dự luật “Tăng Cường Hoạt Động Kinh Tế”, chính quyền Rakowski đã không trả lời rõ ràng.
Ví dụ, trong khi phần lớn các xí nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ mà chính quyền lại không có biện pháp giải tán, thu nhỏ hay sát nhập để giảm chi ngân sách, ngược lại còn khuyến khích thành lập thêm xí nghiệp và cho giảm thuế các xí nghiệp đang trong giai đoạn thành lập.
Thực tế, dự luật này chỉ giúp cho những xí nghiệp quốc doanh thành lập thêm các xí nghiệp ma để trốn thuế và tẩu tán tài sản quốc gia vào trong tay cán bộ đảng mà thôi.
Toàn bộ chương trình cải cách hóa ra đều chỉ là âm mưu của đảng cầm quyền, mục đích là để nuôi béo cán bộ đảng hòng tiếp tục duy trì thể chế cũ, cho nên đã mau chóng thất bại.
Hội Nghị Bàn Tròn
Mặc dù đã đồng ý chấp nhận Hội Nghị Bàn Tròn với Công Đoàn, chính quyền Cộng sản Ba Lan đã tìm cách cù cưa, đưa ra một số điều kiện để làm giới hạn mục tiêu của hội nghị.
Đầu tiên, phía chính quyền đặt điều kiện là Công Đoàn phải tôn trọng hiến pháp, luật pháp hiện hành, và chỉ bàn về sự hợp pháp của Công Đoàn mà thôi.
Phía Công Đoàn Đoàn Kết thì dựa vào điều tuyên bố của chính quyền trước đó, rằng Hội Nghị không có điều kiện nào ràng buộc về chủ đề họp cũng như người tham gia, nên không thể không cho tham gia cuộc họp.
Ngày 15 và 16/09, Bộ trưởng Nội vụ Czeslaw Kiszczak và Lech Walesa đã họp riêng nhưng không giải quyết được vấn đề.
Kế đến, chính quyền Cộng sản Ba Lan lúc đầu hứa là những người tham gia cuộc đình công vào tháng 08/1988 sẽ không bị đàn áp về chính trị, thế nhưng Bộ Nội vụ đã điều tra và đuổi việc những người tham dự.
Ngoài ra, ngày 28/08, chính quyền tuyên bố giải tán xưởng đóng tàu Lenin khiến cho cục diện trở nên khẩn trương.
Chính quyền Rakowski lấy lý do kinh tế, áp dụng đạo luật “Quyền Tối Khẩn” được Quốc hội thông qua dưới thời nội các Mesnel có hiệu lực đến cuối năm 1988, để giải tán những xí nghiệp mà phía Công Đoàn Đoàn Kết có ảnh hưởng mạnh và làm cứ điểm để thực hiện những cuộc đình công tạo áp lực trước đó.
Sự kiện này đã đặt Công Đoàn Đoàn Kết vào thế phải đấu tranh, vì cho đây là hành động đàn áp chính trị của đảng cầm quyền nên Công Đoàn cương quyết không tham dự Hội Nghị.
Ngày 03/11, Bộ trưởng Nội vụ Kiszczak xin hội đàm với Walesa để khai thông vấn đề. Phía Công Đoàn Đoàn Kết đã đưa ra một số điều kiện:
1) Thừa nhận sự hợp pháp của Công Đoàn; 2) Phục hồi chức vụ và công việc của những người đã tham gia đình công; 3) Cho những người từng tham gia vào hai cuộc đấu tranh năm 1968 và 1970 được tham dự hội nghị; và 4) Thu hồi lệnh giải tán xuởng đóng tàu Lênin.
Đáp ứng đủ bốn điều kiện trên thì Công Đoàn Đoàn Kết mới tham dự Hội nghị.
Những đòi hỏi của Công Đoàn Đoàn Kết đã khiến cho đảng cầm quyền lúng túng. Mãi cho đến ngày 18/01/1989, Đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan mới triệu tập Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 10 để thảo luận về các đề nghị của Công Đoàn.
Cuối cùng, Hội Nghị đã phải nhượng bộ, đồng ý với bốn yêu sách của Công Đoàn và đưa ra hai quyết định quan trọng:
Thứ nhất là chấp nhận sinh hoạt chính trị đa thành phần (chưa công nhận đa đảng); Thứ hai là chấp nhận nghiệp đoàn đa thành phần. Ngoài ra, Trung ương đảng còn hứa là sẽ tu chính bộ luật nghiệp đoàn (Luật này do chính quyền Jaruzelski đưa ra vào tháng 10/1982 nhằm cấm sự hoạt động của Công Đoàn Đoàn Kết).
Quyết định này làm cho phe bảo thủ cực lực phản đối, chủ trương không công nhận sự hợp pháp của Công Đoàn. Tổng bí thư Jaruzelski, Thủ tướng Rakowski và Bộ Trưởng Nội vụ Kiszczak đã phải đe dọa là nếu toàn bộ Trung ương đảng không đồng ý với các nội dung trên, họ sẽ từ chức.
Ngày 22/01, Công Đoàn Đoàn Kết đưa ra lời tuyên bố biểu lộ sự quan tâm về quyết định của đảng cầm quyền và chấp nhận tham gia Hội Nghị Bàn Tròn.
Hội Nghị Bàn Tròn bắt đầu từ ngày 06/02 kéo dài đến ngày 05/04/1989. Ngày đầu cũng như ngày cuối có diễn văn khai mạc và bế mạc của cả hai phía.
Hội Nghị được chia làm ba tiểu ban, gồm: Tiểu Ban I, thảo luận về các chương trình cải cách kinh tế và những chính sách xã hội; Tiểu Ban II, thảo luận về chính sách nghiệp đoàn, lao động; và Tiểu Ban III, thảo luận về cải cách chính trị.
Trong những cuộc thảo luận của Hội Nghị Bàn Tròn, dư luận chú ý nhiều nhất vào nội dung thảo luận của Tiểu ban Cải cách chính trị. Theo tiểu ban này, hai bên đồng ý chia 460 ghế hạ viện ra như sau:
60% ghế dành cho đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan và hai đảng ngoại vi của nó (Đảng Dân Chủ Ba Lan, đảng Nông Dân Thống Nhất Ba Lan), 5% ghế cho những đoàn thể ngoại vi khác của đảng cầm quyền (gồm ba nhóm Thiên Chúa Giáo có khuynh hướng ủng hộ chính quyền), 35% ghế còn lại cho những ứng viên tự do mà trên thực tế là người của Công Đoàn Đoàn Kết.
Tiểu ban này còn thảo luận về việc thành lập Thượng viện, và có nên để cho cơ chế này có quyền phủ quyết những dự luật dù đã được thông qua ở Hạ viện, cũng như có quyền thẩm định tư cách của Viện Trưởng Viện Kiểm Tra Tối Cao và những viên chức tư pháp hay không.
Sau cùng, hai bên cũng đã thỏa thuận là không chia số phần trăm ghế cho các đảng phái trong Thượng Viện mà để ứng cử tự do. Thượng viện có 100 ghế.
Công Đoàn Đoàn Kết Đại Thắng Trong Cuộc Bầu Cử Quốc Hội
Căn cứ vào những thỏa thuận trong Hội Nghị Bàn Tròn giữa chính quyền với Công Đoàn Đoàn Kết, cuộc bầu cử Quốc hội đã diễn ra hai lần vào ngày 4 và 18/06/1989 (nếu trong lần bầu đầu mà ứng viên không đạt trên quá bán số phiếu thì sẽ phải bầu lại lần thứ hai, trong số ứng viên đứng thứ nhất và thứ hai).
Kết quả của lần bầu đầu tiên vào ngày 04/06, Công Đoàn Đoàn Kết thắng vẻ vang, vượt xa dự đoán của mọi người.
Tại Hạ Viện, trong số 161 ghế dành cho những ứng viên tự do không thuộc đảng phái, thì ngay trong vòng bầu đầu, người của Công Đoàn Đoàn Kết đã thắng 100%, tức chiếm 161 ghế.
Nếu như tỷ lệ số ghế được chia cho những ứng viên không thuộc phe phái nào nhiều hơn, hay để cho người dân được tự do tuyển chọn thì có lẽ số ghế của Công Đoàn Đoàn Kết còn cao hơn nữa.
Mặt khác, trong số những ứng viên ra tranh cử của đảng cầm quyền, ứng cử toàn quốc có 35 người thì đã có 33 người không đủ túc số quá bán nên thất cử, tiêu biểu như Thủ tướng Mieczyslaw Rakowski, Bộ trưởng Nội vụ Czeslaw Kiszczak và Ủy viên Bộ chính trị Jozef Czyrek.
Lúc đầu, chính quyền không dự định tổ chức cuộc bầu cử toàn quốc lần thứ hai vào ngày 18/06 vì nghĩ phe chính quyền sẽ toàn thắng. Nhưng trước kết quả này, chính quyền Cộng sản đã cấp tốc tổ chức đợt bầu cử lần thứ hai.
Sau hai lần bầu cử, kết quả số ghế giữa các đảng như sau:
Đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan (đảng đang cầm quyền) được 173 ghế (chiếm 38% số phiếu bầu); Công Đoàn Đoàn Kết được 161 ghế (chiếm 35% số phiếu bầu); Đảng Nông Dân Thống Nhất và đảng Dân Chủ (ngoại vi của đảng cầm quyền) lần lượt được 76 ghế (chiếm 17% số phiếu) và 27 ghế (chiếm 6% số phiếu), Liên Minh các tổ chức Thiên Chúa Giáo được 23 ghế (chiếm 5% số phiếu).
Tại Thượng Viện, Công Đoàn Đoàn Kết toàn thắng vì trong 100 ghế ở Thượng Viện, Công Đoàn chiếm hết 99 ghế, 1 ghế còn lại của người không liên hệ đảng phái.
Trước sự thất bại trong cuộc bầu cử, Ban chấp hành Trung ương đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan đã nhóm họp vào ngày 17/07/1989 và quyết định triệu tập đại hội đảng lâm thời vào năm 1990 để tìm một hướng đi mới cho đảng.
Trong hội nghị này, Trung ương đảng bầu cho Mieczyslaw Rakowski làm Đệ nhất bí thư, thay thế cho Jaruzelski để ra ứng cử Tổng thống (theo luật Ba Lan, Tổng thống không được theo đảng phái nào).
Ngày 27/01/1990, đại hội đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan đã tuyên bố giải tán, và tái lập với tên mới là Liên Minh Dân Chủ Tả Phái.
Mặc dù Công Đoàn Đoàn Kết chiếm nhiều ghế nhất trong hai viện, nhưng ở Hạ Viện, số ghế của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan cộng chung với các đảng ngoại vi (đảng Nhân Dân Thống Nhất, đảng Dân Chủ) vẫn chiếm ưu thế (276 ghế), nên đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan có nhiều thuận lợi hơn trong việc tuyển chọn Tổng thống (nhiệm kỳ đầu do Quốc hội bầu) và Thủ tướng.
Sau những dàn xếp nội bộ giữa các đảng phái, ngày 19/07/1989, toàn thể lưỡng viện Quốc hội đã bầu cho Wojciech Jaruzelski (cựu tổng bí thư cộng sản) làm Tổng thống với tư cách không đảng phái.
Ngày 02/08/1989, Hạ Viện bỏ phiếu đồng ý cho nội các của Rakowski từ chức. Sau đó, Quốc hội biểu quyết tấn phong chức Thủ tướng cho cựu Bộ Trưởng Nội vụ Kiszczak, vốn do tân Tổng thống Wojciech Jaruzelski chỉ định.
Việc chỉ định Czeslaw Kiszczak làm Thủ tướng đã bị một số dân biểu thuộc đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan cũng như một phần dân biểu của Công Đoàn Đoàn Kết chống đối.
Trong khi đó, dân biểu của hai đảng ngoại vi (đảng Dân Chủ và đảng Nông Dân Thống Nhất) lại ủng hộ Czeslaw Kiszczak, nên việc tuyển chọn Kiszczak làm Thủ tướng đã gặp trở ngại lúc đầu, nhưng cuối cùng cũng được Hạ Viện biểu quyết thông qua.
Tuy nhiên, việc thành lập nội các của tân Thủ tướng Czeslaw Kiszczak vô cùng khó khăn, vì nếu phe Công Đoàn Đoàn Kết không chịu tham gia thì nội các của Thủ tướng Kiszczak sớm muộn gì cũng bị lật đổ.
Trước tình thế gay cấn này, ngày 07/08, Lech Walesa đề nghị ba đảng, gồm: Công Đoàn Đoàn Kết, đảng Dân Chủ và đảng Nông Dân Thống Nhất cùng đứng ra lập nội các.
Đảng Nông Dân Thống Nhất và đảng Dân Chủ vốn đang bất mãn về việc thành lập chính quyền liên hiệp với đảng Công Nhân Thống Nhất Ba Lan, nên đã muốn ngả về giải pháp của Walesa.
Trước tình hình hỗn loạn, ngày 16/08/1989, Czeslaw Kiszczak tuyên bố rút lui ý định làm Thủ tướng.
Ngày 19/08, sau khi thảo luận với Lech Walesa, Tổng thống Wojciech Jaruzelski đã chỉ định Luật sư Tadeusz Mazowieckj – người của Công Đoàn Đoàn Kết – ra làm Thủ tướng.
Cũng trong ngày này, Trung Ương Đảng Công Nhân Thống Nhất (Cộng sản) tổ chức hội nghị khẩn cấp, cực lực chỉ trích hành động “xé rào” của hai đảng ngoại vi là đảng Nông Dân Thống Nhất và đảng Dân Chủ.
Bộ chính trị còn ra một thông cáo cho rằng sự hợp tác giữa Công Đoàn Đoàn Kết với hai đảng ngoại vi là âm mưu chính trị đen tối. Tuy nhiên, tiếng nói của Bộ chính trị vào lúc này đã không còn giá trị như trước.
Sự Bế Tắc Của Nội Các Tadeusz Mazowieckj
Nội các Mazowieckj thừa hưởng một gia tài đổ nát từ chế độ Cộng sản, kinh tế suy sụp, nợ ngoại trái ngập đầu, đạo đức xã hội băng hoại trầm trọng, khiến cho các chương trình cải cách dù có thiện chí đến đâu cũng không thể tiến hành như ý muốn.
Khi Công Đoàn Đoàn Kết thành lập chính quyền liên hiệp, một số nước phương Tây hứa sẽ viện trợ để nhanh chóng phục hồi nền kinh tế lụn bại của Ba Lan.
Nhưng ngoài những lời cố vấn về kỹ thuật để gây dựng cơ cấu kinh tế thị trường, các nước phương Tây hầu như không tháo khoán toàn bộ những ngân khoản đã hứa.
Trong khi đó, những khó khăn bắt đầu xuất hiện trong hàng ngũ công nhân, khi nhận thấy “người của họ” (Công Đoàn Đoàn Kết) đã không những không ổn định được vật giá, mà lại còn có chiều hướng áp dụng chính sách thắt lưng buộc bụng, không cho tăng lương.
Từ những khó khăn này, nội bộ Công Đoàn chia thành hai phe, đứng đầu bởi Walesa và Mazowieckj, đối nghịch nhau về phương cách giải quyết vấn nạn Ba Lan.
Sự đối nghịch này gia tăng mỗi lúc một lớn, khiến cho cuộc tranh chấp công khai giữa Walesa và Mazowieckj xuất hiện cả trên báo chí, nhất là trong cuộc tranh cử Tổng thống được tổ chức vào ngày 18/10 và 18/11/1990.
Trong tình thế đó, đa số quần chúng mong muốn Walesa (chủ tịch Công Đoàn Đoàn Kết) ra lãnh đạo Ba Lan, vì với uy tín sẵn có, Walesa có thể tạo nên sự gắn kết giữa chính quyền với quần chúng, để vận động mọi giới tham gia đóng góp vào công cuộc phục hưng Ba Lan.
Ngày 12/05/1990, giới trí thức và một số thành phần lãnh đạo Công Đoàn ở cấp địa phương ủng hộ Lech Walesa lập ra tổ chức Liên Minh Trung Ương (Centre Alliance) để vận động bỏ phiếu cho Walesa tranh cử Tổng thống.
Lech Walesa Được Bầu Làm Tổng Thống
Cuộc bầu cử Tổng thống Ba Lan được tổ chức hai lần, lần I vào ngày 18/10 và lần II vào ngày 18/11/1990 với ba đối thủ: hai người trong Công Đoàn Đoàn Kết là Lech Walesa và Tadeusz Mazowieckj, người thứ ba là một thương gia Canada gốc Ba Lan, kinh doanh tại Peru, tên là Stanislaw Tyminskj.
Kết quả cuộc bầu cử vòng đầu vào ngày 18/10/1990, Lech Walesa đứng thứ nhất nhưng chỉ chiếm được 40% phiếu cử tri.
Tình trạng này đặt nội bộ Công Đoàn Đoàn Kết vào một nhu cầu sinh tử là phải đoàn kết một khối, dồn phiếu cho Walesa nếu không muốn thất bại trong lần bầu cử vòng hai, giữa Lech Walesa và Tyminskj vào ngày 18/11/1990.
Kết quả là Lech Walesa chiếm được 75% phiếu, Tyminskj chiếm được 25% phiếu.
Lech Walesa đã chính thức trở thành Tổng thống dân cử đầu tiên của nước Ba Lan tự do vào ngày 22/12/1990, với nhiệm kỳ 5 năm.
Kết Luận
Nhờ ý thức đấu tranh bền bỉ của Công Đoàn Đoàn Kết cùng sự hậu thuẫn rộng khắp của lực lượng trí thức và quần chúng, phong trào Dân Chủ Ba Lan đã gặt hái được thành công với sự đại thắng của Công Đoàn Đoàn Kết trong cuộc tổng tuyển cử vào năm 1989.
Sau gần 40 năm sống dưới nền chuyên chế Cộng sản, sự kiện chấn động này đã phơi bày khát vọng tự do mãnh liệt của nhân dân Ba Lan, với quyết tâm lật đổ ách thống trị lệ thuộc, gian trá và thối nát.
Không chỉ có như vậy, diễn biến chính trị tại Ba Lan cũng là nguồn địa chấn dân chủ đầu tiên làm rung chuyển Đông Âu, đưa đến việc hình thành những phong trào đấu tranh quần chúng tại các nước trong vùng như Hungary, Đông Đức và Tiệp Khắc, sau cùng đẩy nhanh tiến trình sụp đổ ách cai trị Cộng sản trên toàn cõi Đông Âu.
Đối với Liên Xô, sự kiện này đã đặt Gorbachev vào thế phải tiến hành cải cách chính trị mạnh mẽ, tiếp nối hai chương trình “cởi trói” và “tái phối trí” được thực hiện từ giữa năm 1985. Cùng lúc đó, tinh thần đấu tranh giành độc lập cũng ngày một dâng cao tại các nước cộng hòa thuộc Liên Xô.
Sự tan rã của Liên Xô vào năm 1991 chỉ là hệ quả tất yếu trong tiến trình lịch sử đương thời.
Qua những biến chuyển trong Cách Mạng Dân Chủ Ba Lan, ta có thể rút ra một số điều cơ bản như sau:
Trước hết, tại Ba Lan, công nhân lao động là lực lượng châm ngòi cho cuộc đấu tranh đầu tiên, nhưng sau đó, nhờ sự tham gia và lãnh đạo của đông đảo thành phần trí thức, những cuộc đình công mang tính chất kinh tế đơn thuần đã dần trở thành một phương tiện gây áp lực khiến đảng Cộng sản Ba Lan phải thay đổi toàn diện về thể chế chính trị.
Hội Nghị Bàn Tròn luôn là mô thức nhượng bộ quen thuộc mà các đảng Cộng sản tại nhiều nước Đông Âu cũ như Hungary, Đông Đức, Bulgaria, Tiệp Khắc… áp dụng, để vừa gỡ thể diện vừa mua thời gian xoay chuyển tình hình.
Tuy nhiên, thông qua Hội Nghị Bàn Tròn tại Ba Lan, Công Đoàn Đoàn Kết đã thành công trong việc đòi hợp pháp hóa Công Đoàn, chuyển đổi từ hình thức đấu tranh quần chúng sang đấu tranh chính trị công khai nghị trường.
Nhưng để đạt được kết quả này, Công Đoàn Đoàn Kết đã phải trải qua những chặng đường đấu tranh cam go nhất, so với lực lượng dân chủ ở các nước Đông Âu khác cùng thời.
Trong suốt thập niên 80, Công Đoàn Đoàn Kết liên tục bị khủng bố, trấn áp còn thành phần lãnh đạo thì bị truy lùng gắt gao.
Nhưng nhờ sự hậu thuẫn của Giáo Hội Công Giáo, qua những vị Linh Mục ở các địa phương tận tình che giấu, bí mật chuyển tài liệu cho Công Đoàn ở trong và ngoài nước, nên ngọn lửa đấu tranh của công nhân liên tục được bùng cháy.
Ngoài ra, nhờ các nước Tây phương, nhất là Tổng thống Reagan của Hoa Kỳ đã có những biện pháp gây áp lực mạnh mẽ lên chính quyền Cộng sản Ba Lan, như vừa công bố lệnh cấm vận đối với Ba Lan để yêu cầu thu hồi thiết quân luật, lại vừa ngầm giúp đỡ Công Đoàn thông qua Tổng Liên Đoàn Lao Động.
Trong khi đó, trên mặt ngoại giao, Hoa Kỳ luôn tìm cách lôi kéo các nước có ý muốn tách rời khỏi Liên Xô.
Cũng phải kể đến thái độ “làm ngơ” của Gorbachev, ông đã đóng góp rất lớn cho sự thắng lợi của phong trào khi đã để mặc cho các nước Đông Âu tự quyết định vận mệnh của mình.
Tuy vậy, tất cả những nỗ lực trên sẽ trở thành công cốc, nếu không có sự đoàn kết và quyết tâm thay đổi vận mệnh đất nước của chính những người dân Ba Lan, mà đứng đầu là thành phần trí thức, đã kiên cường đấu tranh dưới sự lãnh đạo của một tổ chức đối lập thống nhất là Công Đoàn Đoàn Kết.
Để rồi cuối cùng, chính quyền Cộng sản tưởng chừng vững chắc, không thể lay chuyển một thời đã phải từng bước nhượng bộ mà chuyển giao quyền lực cho phe đối lập, mở ra một trang sử mới cho đất nước Ba Lan, một của kỷ nguyên của nền độc lập, tự do và phồn thịnh.
Trích từ bài gốc của Lý Thái Hùng
Ảnh: Biểu tượng của tổ chức đối lập Công Đoàn Đoàn Kết (Solidarność) trong cuộc Cách mạng Dân chủ Ba Lan năm 1989.
