(Nguyễn Đỗ Thuyên)
Tháng 8/2019, trong chương trình Shark Tank Việt Nam, bạn founder của game Sử Hộ Vương từng “gây bão” trên cộng động mạng bởi câu hỏi có vẻ khá “ngược ngạo”: “Trong các anh chị, đã có ai từng nhìn thấy Nguyễn Huệ thật sự chưa?” (*)
Đó cũng là quãng thời gian mà kênh Vlog1977 bắt đầu nổi tiếng, và một trong những clip của họ “Điều gì xảy ra khi cậu Vàng là giống chó Shiba” cũng chứa đựng một câu hỏi tương tự: “Ông đã nhìn thấy cậu Vàng bao giờ chưa?” (**)
Đặt sang một bên những thị phi xung quanh một game thẻ bài lịch sử hay chuyện casting cho vai “cậu Vàng” cho bộ phim chuyển thể từ truyện “Lão Hạc”; thì hai câu hỏi trên thực chất lại là biểu hiện của một trong những khúc mắc lớn nhất trong lý luận sử học: CÓ THỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC “SỬ THỰC” HAY KHÔNG?
Trong phần 1 (https://www.facebook.com/groups/NghienCuuLichSu/permalink/1154374948247140 ), mình có nêu ra hai luồng quan điểm để trả lời cho câu hỏi ở tiêu đề. Trường phái Phương pháp với Chủ nghĩa thực chứng cho rằng CÓ THỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC SỬ THỰC với các phương pháp và sử liệu phù hợp. Các ý kiến phản bác cho rằng sử gia luôn chịu tác động từ bối cảnh xã hội và do đó đã có sự chủ quan trong cách tìm kiếm vấn đề, đặt giả thuyết, lựa chọn sử liệu…, dẫn đến việc LỊCH SỬ LÀ SỰ LỰA CHỌN VÀ KHÔNG THỂ ĐƯỢC NHẬN THỨC MỘT CÁCH KHÁCH QUAN.
Trong nhóm ý kiến thứ hai, một trong những phê phán cụ thể nhất là của Edward Hallett Carr. Theo Carr, tính chủ quan của sự kiện lịch sử đến từ hai bước:
(i) Một sự kiện muốn trở thành “sự kiện lịch sử” thì phải qua sự lựa chọn của sử gia; bởi vì trong đại dương mênh mông các sự kiện, sử gia chỉ “trục vớt” lên những sự kiện mình cần. Carr gọi đó là “hệ thống lựa chọn có định hướng để nhận thức sự thực”. Như vậy, “sử gia đã quyết định lịch sử” [19]. Đây là quan điểm gần với những người theo thuyết Hiện diện như Charles Oman, cũng như khá tương đồng với Lucien Febvre của trường phái Biên niên và Uchida Tatsuru của Chủ nghĩa Cấu trúc.
(ii) Khi được lựa chọn rồi, sự kiện lịch sử vẫn luôn bị khúc xạ qua đầu của người ghi chép, như vậy nó đã được cấu tạo thông qua đầu óc chủ quan của một con người [20]. Quan điểm này có lẽ đã kế thừa khái niệm về “SỰ HỒI CHUYỂN CÓ TÍNH NGÔN NGỮ LUẬN” (“linguistic turn”) của nhà ngôn ngữ học Ferdinand de Saussure – người được coi là cha đẻ của Chủ nghĩa Cấu trúc. Theo Saussure, giữa ba đối tượng là “một vật tồn tại”; “ý nghĩa được gán cho vật đó”; “từ ngữ để chỉ ý nghĩa đó”; thì sự kết nối giữa ba đối tượng này là CÓ TÍNH TÙY TIỆN. Nói ngắn gọn, chúng ta sẽ “không thể hiểu được sự thật” [21].
Có vẻ như rất khó để phản bác những phê phán này. Có phải tính khách quan của lịch sử là không thể cứu vãn? Vậy còn những khoa học khác thì sao?
4 – “SỬ HỌC KHÔNG PHẢI LÀ MỘT KHOA HỌC CHÍNH XÁC” – VẬY CÒN TOÁN HỌC VÀ VẬT LÝ?
Khái niệm “Sự hồi chuyển có tính ngôn ngữ luận” của Saussure xem ra không chỉ nghi ngờ nhận thức lịch sử, mà còn là nghi ngờ sự nhận thức trong các môn khoa học xã hội nói chung – nơi mà từ ngữ và sự truyền thuật bằng ngôn ngữ chiếm vai trò quan trọng. Liệu các môn khoa học tự nhiên có thoát khỏi sự nghi ngờ đó?
Toán học, với hệ thống ký hiệu, có khả năng thoát khỏi ảnh hưởng của sự sai lệch trong ngôn ngữ hay không? Có thể là có hoặc không, nhưng vấn đề của toán học là hệ thống lý luận của nó được xây dựng dựa trên một số Tiên đề chưa thể chứng minh được, vậy lấy gì đảm bảo cho tính khách quan của nhận thức toán học?
Khoa học thực nghiệm như vật lý thì sao? Vẫn luôn tồn tại tính chủ quan. Chẳng hạn, “bạn không thể chứng minh lực hấp dẫn luôn luôn tồn tại vào mọi lúc. Bạn chỉ có thể nhận thấy lực hấp dẫn tồn tại vào mỗi lúc bạn quan sát” [22].
Như vậy, không chỉ có sử học; mà các khoa học khác cũng “luôn tồn tại khoảng trống phản biện mang tính nguyên lý” [23]. Dạng thức tổng quát hơn của tính chất này chính là “Định lý BẤT TOÀN” của Kurt Gödel: [Bất cứ điều gì mà bạn có thể vẽ một vòng tròn bao quanh nó sẽ không thể tự giải thích về bản thân nó mà không tham chiếu đến một cái gì đó ở bên ngoài vòng tròn – một cái gì đó mà bạn phải thừa nhận là đúng nhưng không thể chứng minh].
Khám phá của Gödel được cho là có tính bước ngoặt, “gây ra những chấn động lớn như những gì Albert Einstein đã làm…. Nó không chỉ áp dụng cho toán học, mà thực ra áp dụng cho tất cả các ngành của khoa học, logic và hiểu biết của con người nói chung” [24]. Nhờ định lý này, ta biết được rằng “Mọi hệ thống đóng kín đều phụ thuộc vào một cái gì đó ở bên ngoài hệ thống” [25]. Và như vậy, định lý BẤT TOÀN giúp ta thấy “nhẹ nhõm” hơn khi biết rằng, cả lịch sử, toán học hay vật lý đều có hệ thống lý luận và nhận thức dựa vào những yếu tố chủ quan, bên ngoài hệ thống đó. Vấn đề “CÓ NHẬN THỨC ĐƯỢC SỬ THỰC HAY KHÔNG” có vẻ như không còn quá nghiêm trọng. Câu hỏi mang tính thiết thực hơn nên được đặt ra là:
5 – SỬ THỰC SẼ ĐƯỢC NHẬN THỨC Ở MỨC ĐỘ KHÁCH QUAN NÀO? VÀ BẰNG CÁCH NÀO?
5.1 – QUY TRÌNH CỦA CARR
Xuất phát từ vai trò rất quan trọng của sử gia trong quá trình tái tạo lịch sử (lựa chọn của họ về đề tài, sử liệu, cách xử lý…), Edward Hallett Carr cho rằng “Cần phải nghiên cứu sử gia trước khi bắt đầu nghiên cứu sự kiện” [26]. Nhưng bản thân sử gia cũng không thể vượt ra ngoài những mối quan hệ của hoàn cảnh xã hội, cũng vẫn là sản phẩm của thời đại, nên Carr kết luận “Phải nghiên cứu thời đại trước khi nghiên cứu sử gia” [27].
Sau khi đề nghị tăng tính khách quan bằng việc nghiên cứu thời đại và nghiên cứu sử gia, Carr thừa nhận rằng “có yếu tố khách quan trong sử học”, nhưng đó không phải là tính khách quan của sự kiện lịch sử, mà là TÍNH KHÁCH QUAN CỦA QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU – bao gồm các tiêu chí để lựa chọn sự kiện, và các phương pháp để nhận thức sự kiện có đúng đắn hay không [28]. Đến đây, vì tiêu chí và phương pháp nhận thức đều nằm trong ý thức chủ quan của nhà sử học – người vốn là sản phẩm của thời đại với những hạn chế thường chỉ được khắc phục ở thời đại tiếp theo; nên Carr cho rằng:
[Nhà sử học không những phải nắm được những hạn chế của hiện tại mà còn phải đoán định được bối cảnh của tương lai; từ đó mới có thể xác lập được mối quan hệ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai; để sau đó đánh giá quá khứ]. Như vậy, một sử gia được coi là KHÁCH QUAN khi đáp ứng được hai điều kiện:
+ Có khả năng vượt qua tầm nhìn bị hạn chế do bối cảnh xã hội và lịch sử hiện tồn.
+ Có khả năng hình dung ra bối cảnh lịch sử của tương lai, để hiểu sâu sắc và sáng suốt hơn về quá khứ [29].
5.2 – CHẤP NHẬN TÍNH CHỦ QUAN VÀ TIỆM CẬN ĐẾN SỰ KHÁCH QUAN
Các chuẩn mực mà Carr đưa ra có vẻ rất chi tiết, nhưng thực tế lại khá mơ hồ và khó xác định. Nó mang tính lý tưởng và do đó khuyến khích sự “hướng đến” tiêu chuẩn ấy hơn là đạt được nó trong thực tế. Thật vậy, có sử gia nào dám tự nhận mình có thể “hình dung ra bối cảnh tương lai” hay “có khả năng vượt qua tầm nhìn bị hạn chế do bối cảnh xã hội và lịch sử hiện tồn”? Cách định nghĩa về lịch sử của Carr cho thấy rõ tính “tiệm cận” này:
[Lịch sử là quá trình tương tác liên tục giữa nhà sử học với sự thực lịch sử của họ, là cuộc đàm thoại vô tận giữa hiện tại và quá khứ] [30].
Quan điểm này tương đồng với nhiều nhà nghiên cứu khác. Nguyễn Thế Anh (1974) cho rằng, VỚI NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ ĐƠN GIẢN, với những biến cố đích xác, có thể định nghĩa và quan sát được, THÌ SỬ GIA CÓ THỂ ĐẠT ĐẾN MỘT SỰ THẬT GẦN NHƯ HOÀN TOÀN KHÁCH QUAN. Khi các sự kiện trở nên phức tạp hơn, khó kiểm tra hơn, khi thực thể nghiên cứu ít hữu hình hơn; thì các sử gia sẽ chưa thể có được ngay một sự đồng thuận từ đầu. Nhưng “các nỗ lực giải thích và tìm hiểu sẽ đưa các sử gia dần đến chỗ cùng chung quan điểm” [31].
Tại sao Nguyễn Thế Anh có thể nhận định một cách lạc quan như vậy trong bối cảnh buộc phải chấp sự hiện diện của tính chủ quan? Có lẽ cần nhìn nhận một cách toàn diện hơn về “chủ quan tính” như cách của Paul Ricœur. Trong cuốn “Histoire et Verité”, ông thừa nhận sử gia cần có “chủ quan tính”, nhưng nên là “chủ quan tính tốt” (bonne subjectivité) – tức là thái độ cởi mở và sẵn sàng tìm hiểu, để chiến thắng “chủ quan tính xấu” (mauvaise subjectivité) vốn bao gồm định kiến, thù hằn, chỉ trích [32]. Và như vậy, nói như Henri-Irénée Marrou, “Nếu có một phần cá nhân của sử gia trong việc luyện thành tri thức sử, tình trạng này không ngăn cản sử học đưa đến một sự hiểu biết xác thực về quá khứ” [33]. Nhìn lại thực tế, dù chấp nhận có yếu tố chủ quan, nhưng chẳng phải nhận thức về lịch sử của đại bộ phận đang ngày càng tiệm cận đến cái đúng đắn hơn, vẫn liên tục có nhiều công trình nghiên cứu tìm ra cái mới, bổ khuyết cho cái cũ đấy sao?
Vậy khi nào thì “chủ quan tính tốt” có thể chiến thắng “chủ quan tính xấu” và đem lại cơ hội tiệm cận đến sự khách quan?
Odanaka Naoki trong cuốn “Lịch sử học là gì” cho rằng, cách vận hành của lịch sử học chính là “đạt được nhận thức đúng đắn mang tính giao tiếp từ việc phê phán sử liệu và từ đó đạt đến giải thích đúng đắn hơn”. Ở đây, “nhận thức đúng đắn mang tính giao tiếp” được xây dựng trong một môi trường thuận lợi cho sự trao đổi giao tiếp, trên cơ sở tôn trọng sự phê phán lẫn nhau, từ đó tiến hành bàn luận hai chiều về các căn cứ dựa trên thành quả phê phán sử liệu và so sánh ý kiến [34].
6 – KẾT LUẬN
Như vậy, có lẽ chúng ta có thể thống nhất với nhau rằng, câu hỏi “CÓ THỂ NHẬN THỨC ĐƯỢC “SỬ THỰC” HAY KHÔNG?” nên được thay bằng câu hỏi “SỬ THỰC SẼ ĐƯỢC NHẬN THỨC Ở MỨC ĐỘ KHÁCH QUAN NÀO? VÀ BẰNG CÁCH NÀO?”. Mức độ khách quan ấy sẽ tùy thuộc vào độ phức tạp của chủ đề lịch sử, phụ thuộc vào các tiêu chí để lựa chọn sự kiện và các phương pháp để nhận thức sự kiện của sử gia. Sẽ không có nhận thức khách quan bất biến với lịch sử, nhưng thông qua việc liên tục cọ xát, mài giũa giữa các quan điểm khác nhau; nhận thức lịch sử sẽ ngày càng tiệm cận đến sự khách quan, trong đó có sự hỗ trợ của “chủ quan tính tốt” trong mỗi sử gia. Đồng thời, vai trò của một nền tảng trao đổi và giao tiếp giữa các sử gia là hết sức quan trọng.
HÌNH: CON ĐƯỜNG TIỆM CẬN ĐẾN NHẬN THỨC LỊCH SỬ KHÁCH QUAN, Nguyễn Đỗ Thuyên vẽ lại từ các phân tích của E.H.Carr, Odanaka Naoki, Nguyễn Thế Anh, Paul Ricœur.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Trần Trọng Dương. (2019). Việt Nam thế kỷ X – những mảnh vỡ lịch sử. NXB Đại học sư phạm.
2. Odanaka Naoki. (2016). Lịch sử học là gì?. NXB ĐHQG TP.HCM.
3. Trần Phương Hoa. (2006). Nhận thức lịch sử – Quan điểm của các học giả châu Âu và Việt Nam. Nghiên cứu châu Âu, 4(70), 55-62.
4. Guy Bourdé & Hervé Martin. (2001). Các trường phái sử học. Viện sử học Việt Nam.
5. Nguyễn Phương. (1964). Phương pháp sử học. Viện Đại học Huế.
6. Guy Thuillier & Jean Tulard. (2002). Các trường phái lịch sử. NXB Thế giới.
7. Hoàng Hồng. (2006). Các luận điểm về sử học của E.H.Carr trong cuốn “Lịch sử là gì?”. Nghiên cứu lịch sử, 1, 58-63.
8. Perry Marshall. (2014). Định lý Bất toàn của Gödel: Khám phá Toán học số 1 trong thế kỷ 20. Truy cập ngày 27/05/2019 tại địa chỉ:
9. Nguyễn Thế Anh. (1974). Nhập môn phương pháp sử học.
GHI CHÚ:
[19] [26] [27] [28] Hoàng Hồng, bài đã dẫn, tr.59.
[20] Hoàng Hồng, bài đã dẫn, tr.58.
[21] Odanaka Naoki, sách đã dẫn, tr.79.
[22] [24] [25] Phạm Việt Hưng, bài đã dẫn.
[23] Sasaki, trích từ Odanaka Naoki, sách đã dẫn, tr.83.
[29] [30] Hoàng Hồng, bài đã dẫn, tr.60.
[31] [32] [33] Nguyễn Thế Anh, sách đã dẫn, tr.81.
[34] Odanaka Naoki, sách đã dẫn, tr.92-93.