CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT – TRANG PHỤC CÔ DÂU VIỆT XƯA THƯỜNG CÓ MÀU XANH 🧐💙

Theo các nhà nghiên cứu, hồi xưa trang phục cưới của người Việt mình chủ yếu là màu xanh, có thể có màu đen, màu hồng (chứ không chuộng màu đỏ, vàng… như bây giờ).

Trang phục cưới của cô dâu tay áo rất dài, bên trong mặc lớp áo tấc dài hơn, lộ ra một chút so với lớp áo bên ngoài (outfit nhiều lớp), tóc búi, cài trâm, đội nón có quai gắn bông….

Sách “Phong tục Việt Nam” của Phan Kế Bính đề cập rằng: “Các cô gái sắp lấy chồng, ai nấy đều lo sắm quần áo cưới. Quần áo cưới của chú rể cũng như cô dâu không giống quần áo mặc thường ngày… Bộ quần áo cưới của cô dâu cũng khác bộ quần áo ngày thường và cô dâu tỉnh với cô dâu quê ăn mặc không giống nhau”. 

Những ghi chép quan trọng này cho thấy trang phục cưới của cô dâu Việt xưa không đơn thuần giống trang phục ngày thường, mà có những cách thức, lề lối riêng biệt về cách ăn mặc.

Theo rất nhiều bằng chứng mà người viết bài thu thập được, cả bằng thư tịch lẫn bằng hồi ức dân gian, thì màu áo truyền thống phổ biến ở đám cưới thời xưa nói chung, cô dâu Việt nói riêng, lại không phải màu đỏ, cũng không phải màu trắng, mà lại là màu xanh!

Theo sách “Trang phục Việt Nam” của nhà nghiên cứu trang phục Đoàn Thị Tình: “cô dâu miền Bắc vào ngày cưới tóc vấn đuôi gà, đầu khăn gài con bướm bạc, cổ đeo kiềng bạc, chuỗi hạt vàng, lưng đeo xà tích, váy sồi đen, mặc áo mớ ba, bên ngoài mặc áo the đen, trong là áo hồng và áo xanh. 

Cô dâu các miền khác cũng có lối ăn mặc tương tự, nhưng có một số tiểu tiết khác biệt. Cô dâu miền Trung và miền Nam chải lật búi tóc, thay vì vấn đuôi gà. Cô dâu miền Trung có thể mặc lồng hai áo năm thân, bên trong là màu đỏ hoặc hồng điều, bên ngoài là áo vân màu xanh chàm (cũng có thể mặc thêm áo the đen bên ngoài thành áo mớ ba), mặc quần trắng”.

Về áo cưới cô dâu miền Nam, sách “Nhà ở – Trang phục – Ăn uống của các dân tộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long” của tác giả Phan Thị Yến Tuyết, xuất bản năm 1993, trang 66 có ghi chép cụ thể hơn như sau: “Vào lễ cưới, trang phục của cô dâu chú rể vùng Gia Định trước kia và vùng ĐBSCL hiện nay có những diễn biến theo phong tục và quan điểm thẩm mỹ, thời trang. 

Cho đến đầu thế kỷ XX… cô dâu mặc áo vân đen mỏng, quần đũi màu hồng sậm, cổ đeo xâu chuỗi hổ phách “hạt to bằng ngón tay cái”, hai tai xỏ đôi bông búp bạc. Dâu và rể đều khoác bên ngoài áo thụng rộng xanh, lót màu cánh sen, khi ra sân có cặp lọng che. Trong những gia đình theo tục cũ, trang phục của cô dâu và chú rể đều là áo cặp.

… Có thể “áo cặp” là phong tục chỉ sự “đủ đôi đủ cặp” trong lễ cưới, vì ngày trước ở vùng Gia Định có thời cô dâu, chú rể ngoài “áo cặp” còn mặc “quần cặp”. Áo cặp tức áo song khai, cô dâu dùng áo the lót gấm hồng, chú rể dùng hàng the lót gấm xanh có dệt chữ “thọ” nhỏ (chữ thọ lớn chỉ dùng cho người lớn tuổi). Chiếc áo dài của cô dâu, chú rể mặc bên ngoài người ta gọi là áo thụng. 

Đó là chiếc áo dài và rộng so với áo dài mặc bên trong, tay áo thụng cũng rất dài và rộng, cửa tay áo có khi lên đến 30 cm. Áo thụng thường được may bằng vải gấm dày, màu lục sậm, xanh sậm hoặc xanh lam có dệt hoa văn. Ngày trước, cô dâu chú rể tầng lớp bình dân ở ĐBSCL có khi mặc áo cặp, đội nón, đội khăn nhưng đi chân đất, không mang giày dép”.

Còn theo bài viết “Gam màu đặc trưng của phục trang xứ Huế” trên trang báo Nét Cố Đô thì cô dâu Huế mặc áo cặp điều lục, đồng thời giải thích điều là màu đỏ, lục là màu xanh.

Như vậy, qua các ghi chép đã trích dẫn, ta có thể thấy trang phục cô dâu Việt ở ba miền tương đối thống nhất, đều chuộng dùng màu xanh. Miền Trung, miền Nam thường mặc kèm áo xanh ngoài với áo hồng bên trong tạo thành áo cặp lục điều, còn miền Bắc có thể khoác thêm áo the đen bên ngoài, gọi là áo mớ ba.

Vậy màu xanh trong hôn lễ có ý nghĩa gì? 

Sách “Đất lề quê thói” của Nhất Thanh có hé lộ một góc nhìn, lí giải về điều này: “Trong quan trường người ta tha thiết với cái áo thụng xanh bao nhiêu thì bọn trưởng giả học làm sang càng ra sức theo đòi bấy nhiêu. Đã nhiều phen đôi bên cha mẹ lấy làm hãnh diện có dâu rể khăn vành dây áo thụng xanh, lễ sống hai lạy trên chiếu cạp điều trải giữa nhà. Trịnh trọng cao sang là ở cái áo thụng kia, họ nghĩ như vậy… Ôi! Thụng xanh!”.

Như thế, màu xanh được chuộng dùng trong đám cưới, là vì văn hóa người Việt thời đó cho rằng màu xanh là màu quý phái, cao sang, xứng hợp cho một ngày lễ trọng đại như ngày cưới vậy.

Ngoài màu xanh, thì trang phục truyền thống cô dâu Việt vẫn có thể mang các màu sắc khác, như màu hồng, màu đen (đã đề cập), màu tím, màu vàng… Song trong khuôn khổ bài viết, ở đây người viết chỉ nói đến màu xanh, là màu biểu trưng, còn các màu sắc khác thì xin phép được đề cập sau nếu có điều kiện.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *