Thứ tư, ngày 30/04/2025 22:06 GMT+7
Chuyện về “bông hồng thép” lái xe Trường Sơn từng nhét 2kg sỏi vào người để trốn gia đình nhập ngũ
Gia Khiêm Thứ tư, ngày 30/04/2025 22:06 GMT+7
Bà Nguyễn Thị Kim Quy, nữ lái xe Trường Sơn ngày nào từng chứng kiến đồng đội ngã xuống vì bom đạn. Trong sâu thẳm trong ký ức, bà không thể quên 10 cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc luôn vẫy tay chào khi đoàn xe vượt qua chiến trường ác liệt. Họ đã mãi mãi nằm lại sau một trận bom dữ dội…
18 tuổi, giấu gia đình lên đường nhập ngũ
Một ngày cuối tháng 4, bà Nguyễn Thị Kim Quy (78 tuổi), một trong 45 nữ chiến sĩ của Trung đội lái xe quân sự mang tên Anh hùng LLVTND Nguyễn Thị Hạnh năm xưa ngồi theo dõi lễ diễu binh, diễu hành cấp quốc gia kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025).
Trong căn nhà nằm ở ngách nhỏ trên đường Đào Tấn, quận Ba Đình, Hà Nội, bà Quy không khỏi xúc động, bồi hồi khi nhớ lại những ký ức hào hùng đã ngủ yên suốt nửa thế kỷ.

Ít ai ngờ, bà từng là một trong những “bông hồng thép” trên tuyến lửa Trường Sơn, lái xe quân sự, chở hàng tiếp tế vượt qua những trọng điểm khốc liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
“Năm 1965, khi vừa tròn 18 tuổi, tôi gầy lắm, chỉ có 45kg, không đủ cân nặng theo tiêu chuẩn đi thành niên xung phong. Tôi đã lén nhét 2kg sỏi vào túi, mong đủ cân để được đi thanh niên xung phong. Không ngờ, mình lại trở thành cô bộ đội lái xe. Ngày ấy chẳng sợ chết, chỉ sợ không cống hiến được gì”, bà Quy nhớ lại.
Biết gia đình sẽ không đồng ý vì thời ấy bom đạn khốc liệt, bà Quy giấu hành lý sang nhà hàng xóm rồi âm thầm lên đường nhập ngũ. “Khi loa truyền thanh xã đọc tên tôi, bố mẹ mới biết, nhưng lúc đó tôi đã ngồi trên xe rồi”, bà cười và cho hay, sở dĩ quyết tâm đi như vậy bởi bản thân bà là con cả trong gia đình có truyền thống quân ngũ. Bà Quy tự hào kể về người cha từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và hai em trai sau này cũng lần lượt khoác ba lô lên đường, cầm súng bảo vệ Tổ quốc trong chiến tranh biên giới phía Bắc.

Bà Quy và nhóm chị em người Hưng Yên tập trung, di chuyển lên khu vực Sân bay Yên Bái.
Những ngày gian khổ ấy, quân Mỹ không ngừng rải bom xung quanh sân bay, nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng và tiêu diệt lực lượng ta. Những “cơn mưa bom” khiến không ít người bị thương vong, nhưng bà và đồng đội vẫn kiên trì, mỗi khi bom ngừng rơi là lại lao vào công việc, đào đá, làm đường, vác gạch, xây nhà, bất chấp nguy hiểm.
Tết Mậu Thân năm 1968, Mỹ huy động một lực lượng máy bay khổng lồ để tấn công các tuyến đường chiến lược, trong khi nhu cầu chi viện cho các mặt trận càng lúc càng trở nên cấp bách. Bộ Tư lệnh Đoàn 559 giao nhiệm vụ cho Binh trạm 9 và Binh trạm 12 tuyển gấp những cô gái trẻ, khỏe mạnh để đào tạo lái xe, vì số lượng lái xe nam không đủ đáp ứng nhu cầu.
“Không sợ bom đạn, không sợ chết, chỉ sợ đói”
Hết 3 năm nghĩa vụ thanh niên xung phong, đứng trước lựa chọn về địa phương, hay tiếp tục cống hiến bà Quy viết đơn xin đi học lái xe, “chia lửa” với đồng đội trên tuyến đường Trường Sơn.

Từ khắp các miền quê, 45 cô gái tuổi mười tám, đôi mươi quy tụ về Trường lái 255 – nay là Trường Trung cấp Kỹ thuật xe – máy Sơn Tây, tham gia khóa huấn luyện kéo dài 45 ngày. Không giáo trình, không bảng đen phấn trắng, lớp học của họ là những cung đường gập ghềnh. “Thầy giáo” là những người lính lái xe dày dạn trận mạc. Các nữ tân binh vừa lái vừa học cách tránh hố bom, vượt đèo, băng suối, chuẩn bị tinh thần cho cuộc chiến khốc liệt đang chờ phía trước.
Nữ lái xe được chia làm hai khóa huấn luyện, thuộc binh trạm 9 và 12. Khóa nào học xong là được đưa thẳng vào chiến trường. Bà Quy thuộc khóa 2 nên vào sau. Do không có xe trung chuyển, bà cùng chị em đeo ba lô, cuốc bộ từ Thanh Hóa vào Quảng Bình.

Tốt nghiệp trường lái, bà đảm nhận nhiệm vụ chở lương thực, thực phẩm từ Thọ Xuân (Thanh Hóa), Nghệ An vào chiến trường. Các nữ lái xe được chia thành hai đội, một đội lái xe goòng (loại xe thường dùng để kéo hoặc chở hàng hóa nặng trên đường rừng, hoặc trong những khu vực không có đường sá thuận tiện) và một đội lái xe đường bộ. Đội lái xe goòng chỉ đi một tuyến đường cố định, còn đội đường bộ mỗi ngày lại di chuyển trên một đường khác nhau.
Những cung đường họ đi qua là Khe Ve, Cổng Trời, Ngã ba Đồng Lộc, nơi được mệnh danh là “túi bom”. Ban ngày, họ ẩn mình trong rừng, chui hầm tránh bom. Ban đêm, lái xe dưới ánh sáng mờ của bóng đèn quả nhót.
Mỗi lần lên xe là một lần đối diện với sinh tử: đường gập ghềnh, bom nổ, đá lở, xe chết máy, bánh sụp rãnh… Công việc vốn dĩ cánh nam nhi còn thấy vất vả, đối với những “bóng hồng” như bà Quy và đồng đội cảm nhận cực nhọc hơn rất nhiều lần. Thế nhưng, tuyệt nhiên không ai trong số họ chùn bước, bất chấp sinh mạng hiểm nguy.

“Ba năm làm thanh niên xung phong giúp tôi rèn được sự gan lì. Hồi ấy chỉ nghĩ mình đi vì nước, chẳng toan tính gì. Trẻ mà, đâu biết sợ bom đạn gì. Ngày đầu ôm vô lăng dọc ngang tuyến lửa, tôi mới 21 tuổi”, bà Quy hồi ức lại.
Những năm tháng lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn là một ký ức không thể nào quên đối với bà Nguyễn Thị Quy. Bà chia sẻ, gian khổ nhất không phải bom đạn mà chính là cơn đói hành hạ. Chuyến đi kéo dài, dọc đường chỉ có nước lã và lương khô. May mắn lắm mới có bữa cơm nguội giữa rừng hay giấc ngủ vội vàng trên xe.

“Lúc đó không sợ bom đạn, không sợ chết, chỉ sợ đói”, bà Quy nhớ lại. Đặc biệt, những ngày “con gái”, bà vẫn phải lái xe trên đường gập ghềnh, gặp hố bom có nước thì tranh thủ giặt giũ rồi mặc vội, chẳng kịp chờ khô.
Một trong những kỷ niệm bà Quy không thể nào quên là lần lạc tay lái ở ngầm Tán Đức. Đường bộ và đường xe goòng mọc đầy cỏ dại, khó phân biệt. Tiếng bom nổ gần kề khiến bà cuống lên, lao xe vào đường goòng. Khi ấy bà tưởng mình đã hi sinh.
Hay một lần, xe của bà và đồng đội đến ngầm Khe Tang trong đêm tối. Chiếc xe Gaz một cầu của bà bị mắc kẹt vì đi nhầm đường, đúng lúc nước suối dâng cao ngập cả buồng lái. Lúc đó, bà cùng một người đồng đội tuyệt vọng, xung quanh bom đạn nổ ầm ầm. Cả hai sợ quá chỉ biết ôm mặt khóc. May mắn thay, các đồng đội sau đó đã kịp thời đến ứng cứu.
Tuyến đường Trường Sơn khi ấy không chỉ hiểm trở mà còn bị rải chất độc hóa học, nắng rát mùa hè, mưa lầy mùa đông. Các đoàn xe vận tải men theo sườn Tây Trường Sơn, một bên là vách núi dựng đứng, một bên là vực sâu hun hút. Những cô gái vóc dáng nhỏ bé phải xếp chăn dày lên ghế lái để tay với tới vô lăng, lưng có chiếc can xăng làm điểm tựa. Đường mấp mô, chỉ cần sơ sẩy một chút là xe lao xuống vực.
Ký ức không bao giờ quên
Suốt những năm lăn lộn trên tuyến lửa Trường Sơn, bà Quy không ít lần chứng kiến đồng đội bị thương, hy sinh giữa bom đạn. Nhưng trong gian khổ và hiểm nguy, nỗi đau ấy buộc phải giấu kín, bởi “chiến trường không cho phép ai được mềm lòng”.
Điều khiến bà ám ảnh nhất đến tận bây giờ, chính là hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong ở Ngã ba Đồng Lộc hiện lên trong kí ức. Mỗi lần xe của bà đi qua, họ lại tươi cười vẫy tay chào đoàn xe và dặn dò “khi quay về nhớ mua quà cho các em”.
Thế rồi, có lần trên đường trở lại, chiếc xe vẫn bon bon qua khúc cua ấy, nhưng chỉ còn trơ trọi một bãi đất hoang tàn, loang lổ hố bom. Những cô gái ngày nào đã nằm lại với đất. Và từ đó, bà Quy không còn nghe thấy tiếng gọi “chị – em” thân quen ngày nào nữa.

“Cảm giác mất mát không thể gọi tên. Mỗi lần nhắc lại các cô gái ở Ngã ba Đồng Lộc là mỗi lần tôi cảm thấy day dứt. Thương lắm, các em khi ấy mới 18 tuổi thôi”, bà xúc động.
May mắn sống sót sau hàng trăm chuyến xe, bà từng bị thương bởi bom bi, để lại vết sẹo ở tay và đầu. Sau chiến tranh, bà trở về Hà Nội, lập gia đình, sinh hai con trai và tiếp tục lao động, nhưng những ký ức Trường Sơn chưa bao giờ phai mờ.
Mỗi lần trở lại chiến trường xưa, bà Quy đều mang theo bồ kết, khăn, lược thắp hương cho các em gái ở Ngã ba Đồng Lộc. Trong ký ức của bà cũng như bao nữ lái xe, họ vẫn còn đó, vẫy tay chào mình mỗi lần đi qua.
Trong số 45 người nữ lái xe, 23 chiến sĩ trở thành thương binh, 11 người đã mãi mãi ra đi. Bom đạn ác liệt là vậy nhưng được lựa chọn lại, bà Quy vẫn kiên quyết: “Tôi vẫn chọn cầm vô lăng trên tuyến lửa, vẫn muốn là một trong những nữ lái xe Trường Sơn”.
Cuộc đời bà Nguyễn Thị Kim Quy là hình ảnh thu nhỏ của thế hệ phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến kiên cường, gan góc mà đầy nhân hậu. Trong dáng hình nhỏ nhắn ấy là tinh thần thép, là tuổi thanh xuân gửi trọn cho đất nước.
Những vòng quay vô lăng năm nào giờ đã lùi xa, nhưng trong đôi mắt bà, ánh lửa Trường Sơn chưa bao giờ tắt. Bà chia sẻ, bản thân luôn kiên cường, bất khuất, là tấm gương cho con cháu noi theo, để các thế hệ sau luôn tự hào và không ngừng cố gắng cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.