CHUYẾN TÀU NỬA ĐÊM [PHẦN 4] – Thị Trấn Mục Rữa

Tôi tên là Amy. Tôi vẫn bị mắc kẹt như một hành khách của Chuyến Tàu Nửa Đêm. Con tàu cứ đi mãi vào một màn đen vô tận đến bực cả mình. Bây giờ con tàu đã đến điểm dừng đầu tiên kể từ khi tôi đặt chân lên nó, và mọi thứ dường như chỉ càng ngày càng tồi tệ.

Các bạn có lo lắng về việc Lilly sẽ lấy cắp tấm vé của tôi, nhưng làm ơn đừng lo quá. Tấm vé vẫn còn trong ốp lưng, điện thoại thì tôi luôn mang theo và cứ một tiếng thì tôi lại kiểm tra một lần nên chắc chắn nó còn bên trong. Tôi khá là hoang tưởng về việc này đó.

Dù sao thì, lần trước tôi đã kể cho bạn nghe về việc con tàu sẽ cập bến ở một ngôi làng và tôi sẽ ra ngoài với Lilly. Ừ thì, đúng là tôi đã làm vậy.

Và vâng, chuyện tiếp diễn “tuyệt” như bạn đã kì vọng đấy.

Tôi sẽ chia câu chuyện này thành 2 phần vì quá nhiều thứ đã xảy ra trong lần cập nhật trước và có thể các bạn sẽ ghét tôi vì “để cái kết bỏ ngõ”. Nhưng tôi hứa sẽ đăng phần 2 vào ngày mai. Chỉ là bây giờ việc kể hết câu chuyện hơi quá sức đối với tôi.

Dù sao thì hãy cứ bắt đầu nào.

Tôi đang đứng trước cánh cửa, chờ Lilly để đến gặp tôi. Và vị Thám Tử đã đến gặp tôi. Tôi đã không ngờ đến sự xuất hiện này, nhưng đó là một điều bất ngờ khá là vui. Phần lớn là vì tôi đã rất sợ Người Đàn Ông mang Cặp Xách sẽ nói chuyện với tôi thêm lần nữa. “Xin chào, ngài Thám Tử”, tôi niềm nở chào đón với nụ cười trên môi.

Ông ta liếc nhìn tôi, rồi nhìn cánh cửa, rồi lại nhìn tôi. “Cô định đi ra ngoài sao, nhóc?”

“Vâng. Một người bạn đã rủ tôi.”

“Đây không phải là nơi để kết bạn”, ông ta bảo và rít điếu thuốc một hơi dài.

“Cô ấy tốt mà”, tôi cam đoan. “Tôi lo về cái nơi chúng ta sắp đến hơn.”

“Tốt. Cô sẽ cẩn trọng hơn khi sợ hãi.”

Tôi cắn môi. Cắn mạnh. Đến mức nếm được một chút vị máu. “Người Đàn Ông mang Cặp Xách cũng nói điều tương tự.”

Vị Thám Tử nhướng mày. “Cô nói chuyện với ông ta à?”

“Hôm qua, đúng vậy”

“Ông ta cho con tàu này ăn tối qua.”

“Tôi biết. Thật ra tôi đã thấy gã đàn ông đó khi hắn còn sống. Hắn đã thiếu tôn trọng Người Đàn Ông mang Cặp Xách”, tôi kể. Kí ức về chuyện đó vẫn khiến tôi lạnh hết sống lưng.

Thám Tử rít thêm một hơi. “Tôi mong nó dạy cho cô một bài học, nhóc ạ.”

Tôi biết ông ta muốn nói gì. Chính là người xung quanh đây rất nguy hiểm và tôi không nên tin ai. Họ có thể gây hại đến tôi chỉ vì dùng sai từ ngữ vào sai thời điểm.

“Nhưng tôi có thể tin ông mà”, tôi đáp.

“Chỉ vì một mẩu giấy nói thế à?”

“Mẩu giấy đó đã giữ cái mạng của tôi đến bây giờ đấy.”

Ông ta cười khi nghe câu nói đó, nhưng dường như niềm vui chỉ chiếm phần nhỏ. “Hãy cẩn thận, nhóc con”, ông ta bảo. “Thật đáng tiếc nếu cô c.h.ế.t.”

Rồi ông ta đi mất. Tôi đợi thêm vài phút thì Lilly tới. Cô ấy không mặc cái váy cộc tay nữa mà thay bằng quần dài đen, áo thun trắng và khoác bên ngoài áo khoác xanh lục. Tóc Lilly buộc lên thành đuôi ngựa. Trông cổ thật nóng bỏng. À ừ, tôi biết các bạn không quá yêu thích chi tiết của chủ đề này.

“Sẵn sàng chưa?”, cô ấy hỏi tôi với nụ cười rạng rỡ.

“Yeah, đi thôi nào.” Tôi nhấn nút bấm cạnh cửa và nó mở ra, chúng tôi bước ra ngoài.

Tôi đã nửa nghĩ rằng tôi sẽ tiến vào cái bóng đêm sâu hút đó. Thứ mà tôi đã thấy khi ghé thăm Cô Dâu Than Khóc. Nhưng mọi thứ đều bình thường, cùng với bầu trời âm u đang giăng trên đầu chúng tôi.

Người soát vé đang đứng ngay cạnh cửa ra vào và tôi chạy ngay đến bên ông ấy, vì luật bảo tôi làm thế. “Thưa Ngài Soát Vé?”, tôi hỏi. “Ông có thể hướng dẫn cho chúng tôi một số luật lệ của nơi này được không, làm ơn?”

“Đương nhiên, thưa Quý cô. Đừng ăn gì trong thị trấn. Đừng chạm vào dân thị trấn. Cúi chào trước nữ hoàng, nếu các bạn có gặp được bà ta.”

Nó nghe ít hơn hẳn những luật lệ của Chuyến Tàu Nửa Đêm, dù vậy tim tôi vẫn thòng xuống một chút. Đó có nghĩa là ngôi làng đó không có gì tốt hết. Tôi vẫn cố gượng cười, cảm ơn ông ấy vì thông tin ấy và quay sang Lilly, cô ấy cũng nghe rất kĩ đó.

Chúng tôi đi bộ khỏi ga tàu về phía thị trấn và vẫn tiếp tục mấy chuyện phiếm còn dang dở từ hôm qua. Cô ấy vẫn khiến tôi dễ chịu, nhưng lúc này không phù hợp để có thể thư giãn. Có điều gì đó rất đáng lo ngại về chuyện này, và tôi thấy mình quá mong manh để có thể đi ra một vùng rộng lớn như vậy. Khí trời nóng và ẩm ướt, cứ như muốn làm người ta phát cúm lên. Tôi đã muốn trở ngược lại vào tàu, nhưng trông Lilly hạnh phúc khi ở ngoài đến mức tôi không muốn làm cổ mất hứng.

Cũng phải nói thẳng là con tàu bản thân nó cũng chả có an toàn gì hơn mấy.

Chúng tôi băng qua con đường đầu tiên và tôi chợt nhận ra nơi này xuống cấp trầm trọng đến như nào. Cứ như nó đã bị bỏ hoang lâu rất lâu và dần dần đã bị mục rữa theo thời gian. Những căn nhà sập xệ, cửa kính thì vỡ nát, những con đường thì ẩm ướt và lầy lội. Trong một lúc tôi đã thật sự nghĩ ghé thăm nơi này sẽ chán lắm, trông nó có khác nào một thị trấn ma cơ chứ. Và những điều luật mà người soát vé đã dặn có lẽ đã tồn tại từ cổ chí kim, khi mà nơi này vẫn còn đông đúc.

Chúng ta đều biết tôi đã sai trầm trọng, đúng không?

Lilly thích việc ghé mắt tại một cô cửa tiệm để nhìn vào trong, cho dù không một cái tiệm nào có vẻ mở cửa. Mấy cái màn hình tắt ngóm có làm tôi hoảng một chút, nhưng để so sánh với mấy thứ mà tôi đã thấy dạo gần đây, cũng chả có gì tệ lắm. Cả hai dừng ở một hiệu sách, nhìn vào những cuốn sách với trang giấy ẩm ướt. Những tấm bìa da tuy đẹp đẽ nhưng tôi chẳng thể đọc được chúng viết gì. Phần vì thời tiết đã làm tổn hại và mờ mịt hết chữ được in trên đấy, phần vì chúng được viết bởi một thứ ngôn ngữ gì đó, tôi không biết nữa.

Tôi bỗng giật mình tưởng rằng đã lạc mất Lilly, tuy nhiên cô ấy chỉ quanh quẩn đằng mấy góc phố để nhìn mấy cửa cái cửa kính rõ hơn, từ nhiều góc độ khác nhau. Khi tìm được cô ấy, hai chúng tôi nắm tay, để khỏi lạc mất nhau ở trị trấn lạ lẫm này.

Tiệm bánh mà chúng tôi đến tiếp theo còn làm tôi hãi hùng hơn. Có bánh ở khu trưng bày, bánh pastry và bánh quy, nhưng tất cả đều thối rữa. Chúng đã bạc màu hết cả, phủ trong đám mốc dày đen, trắng, xanh lá, chì việc nhìn thôi cũng khiến tôi nổi hết cả da gà.

“Thứ này đã mục rữa trong bao lâu rồi nhỉ?”, tôi hỏi Lilly.

“Có thể là vài ngày?”, cô ấy đáp. “Ở đây ẩm quá nên mốc lên nhanh lắm.”

Cô ấy nói đúng, môi trường này thật hoàn hảo cho mốc phát triển. Không chỉ đồ ăn mà cả trên những toà nhà nữa.

“Vậy đây là lí do mình không thể ăn ở đây à”, tôi nói, giống tự nói với chính mình hơn là với Lilly. Vào lúc này tôi đang thèm đồ ăn thật sự muốn c.h.ế.t luôn, nhưng nhìn cái đống mốc meo trước mặt xua đi hết cái cơn đói của tôi.

Tôi nhảy dựng lên khi bất chợt trông thấy một chuyển động bên trong tiệm bánh. Cho tới bây giờ tôi vẫn cam đoan rằng cái thị trấn này bị bỏ hoang, nhưng chắc chắn có thứ gì đó bên trong cửa tiệm. Thứ gì đó quá lớn so với một con thú. Tôi vừa căng thẳng nhìn vào nó vừa chỉ về thứ đó để hướng sự chú ý của Lilly vào cửa tiệm. Nó có hình dạng giống một con người, nhưng cử động thì chậm chạp vô cùng. Khá là khó để nói chi tiết vì bên trong tiệm không có đèn, nhưng cái bóng lờ mờ trông như một bộ xương bọc da nhão. Nó cử động chậm rì và nước thì nhỏ giọt từ thân thể kì quái của nó.

“Nó là cái thứ gì vậy?”, Lilly thì thầm.

“Tớ không muốn biết đâu”, tôi đáp, chộp ngay lấy tay cô ấy và kéo ra xa khỏi tiệm bánh. Dù bên trong có là gì chăng nữa, tôi không muốn nó thấy bọn tôi. Nó có thể hoàn toàn vô hại, nhưng sau khi chứng kiến quá nhiều thứ trên con tàu, tôi chắc rằng đinh ninh là nó tệ sẽ sáng suốt hơn vào lúc này.

Chúng tôi không chạy. Chạy quá dễ thấy và thứ trong tiệm bánh vẫn chưa nhận ra sự hiện diện của chúng tôi, vì thế hai đứa lội bộ xuống phố như chưa có gì xảy ra. Dưới chân là con đường ướt và trơn trượt. Chúng tôi cứ tiến thẳng về trung tâm thị trấn, Lilly vẫn mỉm cười và bất ngờ kéo tôi vào cửa hàng tiếp theo mà cổ tìm được.

Cô ấy làm tôi nhớ về lúc mình vẫn còn là một đứa trẻ, trong cửa hàng đồ chơi.

Lilly kéo tôi đến cửa sổ kế tiếp và nhìn vào những món trưng bày một cách đầy thích thú. Còn tôi thì phải cố lắm mới không bật ra tiếng thở dài ngao ngán. Bể cá. Rất nhiều bể cá, xếp chồng lên nhau, tất cả đều bị phủ đầy mốc, đất và ghét bẩn.

Bây giờ thì tôi cần đưa ra lời giải thích. Tôi không thích mấy cái bể cá bẩn chút nào. Chúng như chứa đựng những điều ám ảnh của tôi, về những bể cá và dòng nước dơ bẩn đục ngầu chứa trong chúng. Không có gì quá dữ dội đâu, nhưng cũng đủ làm tôi dựng tóc gáy. Tôi từng trải qua vài cơn ác mộng, rằng tôi phải chạy trốn khỏi một công viên thuỷ sinh bỏ hoang. Rồi tôi bị kẹt trong những căn phòng tối với ánh sáng hiu hắt và nước thì ôi thiu. Tuy nhiên chứng ám ảnh này của tôi có thể khống chế được. Nó sẽ không thể gây bất lợi cho tôi đâu.

Nó “chưa”, và tôi đã ở đó. Mắt giao với thứ mà đáng lẽ ra chỉ nên xuất hiện trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình.

Những ánh sáng chớp nháy soi vào cái bể cá. Nước trong bể mọc đầy rong rêu. Nửa cái xác mục ruỗng của một con cá nhỏ trôi nổi qua lại trong đó, nhìn xoáy vào tôi với hai hốc mắt rỗng tuếch. Mốc cũng đã đóng đầy nắp của những chiếc bình thuỷ tinh, chúng ẩm ướt, xanh lè và tởm lợm. Tôi cố gắng giữ mình nhìn xuống mặt đường, nhưng đôi khi tôi lại liếc mắt qua chúng, như đang mong chờ rằng điều gì đó sẽ thay đổi.

“Thật tuyệt vời”, Lilly nói thầm.

Tôi thấy muốn bệnh.

“Cậu có ổn không, Amy?”, cô ấy hỏi, bỗng lo lắng cho tôi.

Tôi gật đầu. “Tớ ổn. Tớ chỉ thích mấy cuốn sách hơn chỗ này.”

Những quyển sách đã thật đẹp. Có lẽ mấy cái bể cá cũng đẹp, nhưng là qua mắt của người khác. Tôi hiểu cô ý cô ấy, có một nét quyến rũ rợn người trong sự hoang tàn, đổ nát và trong những thứ còn sót lại. Tôi cũng thấy được.

Tôi chỉ không thể ép mình để thích chúng.

Lilly hiểu ngay lập tức và chúng tôi lại tản bộ sang nơi khác, và cả hai thấy ai đó. Một người đàn ông. Một cá thể sống trong thị trấn bỏ hoang này.

Tôi có linh cảm xấu về điều này.

Người đàn ông tiếp cận chúng tôi và ông ta trông thật bệnh. Thật sự bệnh hoạn. Trắng bệch, đầy mồ hôi và mang một ánh nhìn như muốn phát sốt trong đôi mắt, cùng những mảng sẫm màu loang lổ trên da. “Mày!”, ông ta rít lên với chúng tôi. “Tụi mày có bị nhiễm chưa hả?”

Lilly chộp lấy tay tôi.

“Chúng tôi chỉ là du khách!”, tôi bảo.

“Nói dối!”, giọng hắn ta khàn đi. “Tụi mày có bệnh dịch. Tụi mày có, tao biết!”

“Thưa ngài, làm ơn. Trông ngày mệt mỏi quá”, tôi bảo hắn. Trông hắn ta đáng lí phải không thể đi bộ được nữa, nếu xét đến làn da hoại tử cùng cơ thể hốc hác của hắn. Cho dù hắn ta đang phải trải qua căn bệnh gì đi nữa, tôi gần như chắc rằng nó có thể gây c.h.ế.t người.

Hắn nhìn xuống đôi tay phủ với những mảng đen loang lổ của mình. “Mày làm tao bệnh!”, hắn ta gào lên. “Đây là lỗi của chúng mày! Chúng mày lây cho tao, đồ chuột cống!”

Tôi không tự hào về điều này, nhưng tôi đã đông cứng lại khi hắn xông về phía chúng tôi. Tôi quá hoảng loạn, tâm trí tôi trống rỗng và tôi chả thể làm gì ngoài đứng nhìn chằm chằm vào thằng cha bệnh hoạn đang tiến đến ngày càng gần hơn, mặt hắn nhăn nhó trong cơn giận dữ. Tôi thậm chí không thể đưa tay ra phòng bị. Chỉ đứng yên ở đó, chứng kiến mọi thứ diễn ra như một thước phim tua chậm.

Lilly đã bắt kịp tình huống. Cô ấy kéo tôi vào một con hẻm, lôi tôi theo trong khi tìm nơi khác để tránh khỏi gã kia. Tôi lấp vấp đi theo sau, cố để theo đúng lối của cô và suýt thì mất cả thăng bằng trên con đường trơn trượt. Chúng tôi chạy đến khi phổi muốn nổ tung và tôi gần như không thể thở được nữa. Tôi cầu nguyện rằng cả hai đang quay về con tàu vì hai chân tôi đang run rẩy lắm rồi. Đầu gối tôi như muốn rụng ra và tôi đã tưởng mình sẽ ngã khuỵu xuống nền đất, nhưng adrenaline giữ tôi đứng vững trên chân mình.

Và rồi chúng tôi đã chạy thẳng vào trung tâm thị trấn.

Tôi có thể đã gọi rất nhiều thứ tôi thấy từ đầu tới giờ bằng từ “khiếp hãi”. Thứ đang phơi bày ra trên quảng trường thị trấn thật xứng đáng để được gọi như thế, nhưng cái vẻ đẹp ma quái đến ngộp thở kia là không thể phủ nhận.

Có một cái ngai vàng làm từ xác thịt. Không phải xác chết. Ít nhất là không bộ phận cơ thể nào tôi nhìn ra hết, không phải từ con người nhỉ, tôi chắc về điều đó. Chúng chỉ là một mớ thịt hỗn độn, có màu đỏ và xám bệnh hoạn. Một phần trong số chúng bị bao trùm bởi mốc, hình như thứ mốc này phủ lên trên cả thị trấn. Vẫn còn những chất dịch rỉ ra từ chúng, làm cho những khối đá cuội lấp lánh trong ánh sáng mập mờ.

Và trên ngai vàng, vị nữ hoàng đang yên vị. Bà ta gần như là một bộ xương, bị bộc lại chặt cứng bởi làn da xám ngắt và trên đó cũng có những mảng đen như gã vừa nãy. Mái tóc đen dài và bết dầu xoã qua vai. Nơi từng có đôi mắt giờ đây chỉ còn là hốc rỗng tuếch. Đôi má bà ta hõm sâu và môi thì còn hằn vết máu. Bà ta mặc một chiếc đầm rộng mà có lẽ từng là màu trắng, nhưng giờ đây nó đã thành màu cháo lòng, dính các vệt đen và xám trên nó. Các ngón tay xương xẩu nắm chặt lấy đám thịt trên ngai vàng và trông coi thị trấn của mình.

Người trong thị trấn đứng xung quanh bà ta. Hay đúng hơn là di chuyển quanh bà ta. Hai vòng tròn hoàn hảo, một cái ở trong một cái ở ngoài, di chuyển hoà hợp đến hoàn hảo và không tạo ra bất cứ tiếng động nào.

Tôi đứng đó và kinh ngạc chứng kiến cảnh tượng lạ kì trước mắt cho đến khi nữ hoàng đột nhiên cử động. Không nhiều đâu, chỉ là đầu bà ấy giật lên, cặp mắt trống rỗng hướng về Lilly và tôi. Bà ấy đã thấy chúng tôi.

Cúi chào nữ hoàng.

Chúng tôi khuỵu gối và tôi giữ đầu mình cúi xuống, không dám nhìn. Không khí nóng bức, như muốn phát sốt, kẹt trong cổ họng tối. Hoà cùng mùi nồng nặc từ thịt thối rữa làm tôi phát ốm. Từ khoé mắt mình, tôi có thể nhận ra đám người đó đang dần tiếp cận chúng tôi. Vẫn di chuyển rất đồng điệu thành vòng tròn quanh chúng tôi và càng ngày vòng tròn đó càng thu hẹp. Lúc đó tôi đã khóc, nức nở khe khẽ và để nước mắt của mình nhỏ giọt trên nền đất.

Tôi không thể làm gì khác nữa. Cho dù nếu tôi muốn chạy khỏi đó, nhưng không còn khe hở nào cho tôi chui qua khi đám người nhiễm bệnh này đã đến quá gần. Tôi không thể liều mình chạm vào họ. Người soát vé đã cảnh báo tôi về nó rồi. Tôi khá chắc lí do là vì chúng tôi sẽ bị lây bệnh nếu làm thế.

Nữ hoàng tạo ra một tiếng động. Nghe như một tiếng cười rầu rĩ vang vọng khắp quảng trường. Người dân bắt đầu la hét. Họ khuỵu gối, đưa tay lên trời và bắt đầu đấm vào khoảng không như đang chiến đấu với giọng của bà ấy. Và khi bà ấy tiếp tục cười, họ thút thít trong đau đớn và dù là thế, họ vẫn làm những điều đó trong sự đồng điệu đáng kinh ngạc.

Tôi đã từng đông cứng vài lần trước đây. Nhưng lần này thì không. Ngay khi đám người đó bị tê liệt bởi cơn đau, tôi nắm cổ tay Lilly và chạy đi. Không tốn bao lâu cô ấy đã bắt kịp tôi và cả hai tăng tốc qua những con đường hẹp để đi về hướng nhà ga.

Tôi không hề thích Chuyến Tàu Nửa Đêm.

Nhưng vào thời khắc đó, tôi không có cảm giác gì ngoài sự nhẹ nhõm khi trông thấy họ đang chờ chúng tôi ở nhà ga, người soát vé vẫn đứng bên cạnh cửa.

Tôi đã hơi sợ rằng người soát vé sẽ hỏi chúng tôi chuyến đi như thế nào. Dù cho tôi có thể cố nặn ra vài câu bình luận dễ nghe “nửa thật nửa giả” về con tàu, nhưng tôi không thể nói bất cứ điều gì tích cực về chuyến đi kinh dị đó cả.

Nhưng ông ấy chỉ mỉm cười rồi bảo “Chào mừng trở lại, các quý cô” và cho chúng tôi vào. Tôi đã không nghĩ mình có thể vui mừng đến vậy khi thấy lại được tấm thảm lỗi thời đó lần nữa.

“Ừ thì, đó là một trải nghiệm…ra gì phết”, tôi nói với Lilly khi cánh cửa dần đóng lại sau chúng tôi.

Cô ấy nở một nụ cười tươi rói, quấn tay quanh cổ và ôm tôi. “Nó còn hơn cả tuyệt ấy chứ. Tớ đã chưa thấy bản thân có cảm giác đang sống thế này hàng tháng rồi. Cảm ơn cậu, Amy, cảm ơn rất nhiều!”

Làm sao tôi có thể giận cô ấy sau điều đó cơ chứ?

“Không có gì đâu”, tôi trả lời và ôm lại cô ấy.

“Nhưng tớ nghĩ mình sẽ bỏ qua trạm dừng tiếp theo thôi.”

Đó là lúc cô ấy nhận ra toàn bộ việc này đều mới mẻ với tôi và liền xin lỗi tôi. Rồi Lilly hỏi tôi có ổn không, có bị ảnh hưởng xấu gì không, cô ấy sẽ làm mọi thứ để giúp tôi.

Tôi cam đoan với cổ là tôi ổn và vẫn đang cố gắng làm quen với nó. Không có gì mà vài tiếng nằm ngủ không thề chữa lành cả. Tôi thậm chí còn nở lại một nụ cười với cô ấy.

Chúng tôi tách nhau sau đó. Tôi mua thêm bánh quy dù cho tôi không cảm thấy muốn ăn cho lắm và quay trở về khoang của mình. Tôi nằm xuống một lúc, có thể nếu tôi ngủ một chút thì sau vài giờ, con buồn nôn sẽ thuyên giảm để tôi còn nuốt được vài cái bánh xuống cổ họng.

Màn đêm buông xuống và con tàu lại lăn bánh, tiếp tục chuyến hành trình của nó đến miền không tên. Tôi chỉ vừa viết những update này cho các bạn ngay khi cửa phòng tôi bị đẩy bật ra. Tôi nhảy dựng lên, sợ hãi thứ gì tiến vào khoang của tôi vào tối muộn thế này. Và tôi thấy Lilly.

Cô ta trắng bệch, rõ ràng đang chật vật để trụ vững trên đôi chân mình và một cơn sốt đang bùng lên trong đôi mắt cô. “Tớ đã đụng vào một trong số chúng”, cô ấy nói trước khi ngã sập xuống sàn.

Bây giờ sẽ đến phần các bạn ghét tôi vì tôi sẽ kết thúc bài đăng này tại đây. Tôi xin lỗi, nhưng quá nhiều thứ đã diễn ra sau đó, còn bài này thì đã dài và tôi thì quá mệt, nên ngày mai các bạn sẽ nhận được phần tiếp theo.

Cho tới lúc đó, hãy tránh xa khỏi những thị trấn bỏ hoang.

Bạn không biết điều gì đã khiến những người ở đó rời đi đâu.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *