Đền Lảnh Giang (còn gọi là đền Chính, đền Quan Lớn Đệ Tam), thờ 1 trong 3 vị đại vương vốn là 3 con rắn được sinh ra từ một cái bọc. Tương truyền, vị đại vương này rất có công trong việc chống Thục nên được Vua Hùng phong là Nhạc Phủ Ngư thượng đẳng thần, sau được gia phong là Trấn Tây An Tam Kỳ Linh ứng thái thượng đẳng thần. Từ xuất xứ của thần sinh ra từ sự hoài thai của thủy thần trong hình hài con rắn, biểu hiện của nước, đến tên hiệu của vị thần này cũng thấy rất rõ bản chất là một vị thần sông nước.
Đền nằm trong khuôn viên khoảng 3.000m2, tràn ngập màu xanh của cây cối, đầm sen, bến nước… Cửa đền nhìn ra hướng sông Nhị Hà (sông Hồng), phía tây là khung cảnh đồng lúa lảng bảng trong làn khói lam chiều, phía bắc có đền thờ công chúa Ngọc Hoa em gái Tiên Dung, phía nam giáp làng Nha Xá và đình thờ Trần Khánh Dư.
Năm 1996 đền Lảnh Giang được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Lễ hội đền Lảnh Giang được tổ chức hằng năm với hai kỳ lễ lớn. Kỳ lễ đầu tiên được tổ chức vào 18 – 25/6 am lịch, kỳ thứ hai từ 18 – 25/8 âm lịch thu hút hàng nghìn du khách trong và ngoài nước đến tham quan, chiêm bái.
Nhớ đến con rắn trắng, ông lão khấn vái: “Nay ta đánh cá ở đầm, con phù hộ ta đánh được nhiều cá mới là báo đáp ơn ta…”. Khấn vái xong, quả nhiên ông lão thả lưới đâu trúng cá to ở đó.
Ông Ngô Duy Tỵ – thủ từ ở miếu Đức Thánh Đầm (thuộc phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, TP.Hà Nội), cho biết, miếu này thờ một con rắn trắng. Thần tích tại miếu ghi lại: Thời xưa xa, làng Mễ Trì dân mạnh của nhiều, ruộng đất phì nhiêu, ao đầm trong lành, người giàu ra sức cày ruộng, người nghèo đan lưới đánh cá.
Trong làng có một ông lão nhà nghèo không có con, hằng ngày lấy việc đan lưới đánh cá làm nghề mưu sinh. Một hôm, ông lão mang lưới ra đầm đánh cá nhưng không được con cá nào, chỉ được một quả trứng to bằng quả trứng vịt. Lấy làm lạ, ông lão mang về nhà cất trong chum thóc. Mấy chục ngày sau, quả trứng nở ra một con rắn màu trắng, ông lão nửa mừng nửa sợ không dám nói cho người khác biết và giấu con rắn vào trong chum, hằng ngày cho rắn ăn. Ông lão thương con rắn như con mình.
Khoảng 100 ngày sau, con rắn trắng lớn nhanh như thổi. Một đêm, trời bỗng nổi mưa to gió lớn, con rắn trắng chạy ra chỗ đầm cũ lặn mất. Ông lão đuổi theo nhưng không kịp. Những ngày sau đó, ông lão vô cùng buồn rầu, đi cất lưới nhưng chẳng được con cá nào. Một hôm, nhớ đến con rắn trắng, ông lão khấn vái: “Rắn ơi, rắn ơi. Con là con ta, không ở cùng ta, chớ phụ công ta nuôi dưỡng. Nay ta đánh cá ở đầm, con phù hộ ta đánh được nhiều cá mới là báo đáp ơn ta”. Khấn vái xong, quả nhiên ông lão thả lưới đâu trúng cá to ở đó.
Từ đó trở đi, ông lão khấn vái như vậy đều đánh được nhiều cá to. Những người đi cùng ông lão đến đầm thả lưới được rất ít cá, chỉ mình ông được nhiều mà lại toàn là cá to. Mọi người lấy làm lạ, hỏi thì ông lão thật thà kể lại chuyện. Thế là dân làng bắt chước lời khấn của ông lão, đánh được nhiều cá to.
“Những người đánh cá trong làng sau đó đã dùng đất, gỗ xây thành một cái bệ cạnh bờ đầm để thờ cúng. Về sau dân làng mới biết, con rắn trắng ấy là con thứ ba của Vua Thủy Tề, do đó người dân gọi là cụ Hoàng Ba hay Đức Thánh Đầm” – ông Tỵ kể.