CÁI SỰ ĐỜI

(Truyện ngắn của Trịnh Tuyên)

 Lão Mận năm nay tuổi  gần tám chục, vậy mà sáng nào cũng dậy  sớm đi bộ. Qua ngõ nhà tôi, lão cầm gậy gõ keng keng  vào cánh cổng sắt. Đó là ám hiệu lão rủ tôi dậy cùng đi bộ với lão. Lão bảo: “Đi bộ là giải pháp tốt nhất rèn luyện sức khỏe, để sống  lâu mà nhìn cái sự đời”. Chẳng biết “ cái sự đời” lão nói là cái gì? Tuổi như lão, còn chưa chịu buông xuôi, canh cánh cái sự đời  làm chi nữa chứ? Tám mươi tuổi đời, sáu  ba năm tuổi đảng,  lăn lộn, công tác từ thời chiến tranh, khó khăn gian khổ từng nếm trải, chưa thấy hết  hay sao mà lão còn cố sống để nhìn? Chắc trong lòng lão già vẫn còn ẩn ức một điều gì đó rất hệ trọng mà chưa thể nói ra?

.

Tôi với lão Mận là bạn vong niên. Mùa hè, lão dậy từ khi trời đất còn lờ mờ. Tôi bảo: “ Bác dậy sớm quá!”. Lão khề khà: “Không ngủ được, nằm mãi, chỉ mong cho trời nhanh sáng”. Thường tôi chỉ đi bộ với lão một vòng, rồi chạy trước. Đi cùng lão, tôi thấy mình cũng đang già theo lão. Lão vừa đi vừa ho. Mùi dầu cao chống gió từ người lão bay sang, tôi có cảm giác như mình đang ốm, nằm trong Bệnh viện.

Có một dạo, bảy tám ngày liền, không nghe tiếng gõ vào cánh cổng, tôi tưởng lão ốm, đến thăm, nhưng không phải, lão đi thăm đứa con gái đầu làm chủ tiệm may trên Thành phố. Con gái đầu của lão kém tôi  vài tuổi. Ví như ngày xưa, có duyên, khéo tôi là con rể của lão cũng nên.

Thoáng thế mà lão cũng đã về hưu gần hai chục năm. Đi bộ chỉ là để cải thiện sức khỏe chứ đâu phải là phép cải lão hoàn đồng? Tuổi già có tha ai? Mặc dù lão cố công luyện tập như thế nhưng sắp này thấy lão yếu tợn, đi bập bõm bữa đực bữa cái . Có hôm tôi mở cổng, thấy lão đang đứng chống gậy thở. Lão kêu mệt và đau. Lão kéo cái ống quần pi gia ma lên cho tôi xem, thấy hai đầu gối đỏ tấy. Tôi khuyên lão nên về vì trời lạnh, độ ẩm cao, rất bất lợi cho người  bị bệnh khớp. Lão nghe lời tôi quay về nhưng vẫn đứng một lúc lâu nhìn theo, vẻ như tiếc nuối một thời tuổi trẻ đã vĩnh viễn đi qua.

Tưởng lão đang bị bệnh, dừng đi bộ vài hôm, vậy mà sáng hôm sau, tôi đã thấy lão đang lọ mọ đi phía trước rồi. Tôi động viên: “ Bác đúng là một tấm gương sáng về lòng dũng cảm và đức tính kiên trì chiến thắng bệnh tật”  Động viên thế cho lão vui, chứ tôi nhìn lão thực sự ái ngại. Bước chân lão đi run run, dáng ngả nghiêng. Nếu không có cây gậy, chắc lão chả đi nổi vài chục bước. Mấy hôm sau trời nắng, căn bệnh khớp của lão có phần thuyên giảm, lão phấn khởi lắm. Tôi nhường lão đi trước, đi sau,  nhìn kỹ lão, thấy thương. Lão bảo với tôi, sáng lão dậy, mụ vợ  cũng dậy theo. Khi lão chống gậy đi ra đường thì mụ vợ ra vườn hái rau, cà chua, cà pháo, chuẩn bị hàng đi chợ. Khi lão đi bộ về, mụ vợ đã gánh hàng đi rồi. Chợ phiên  họp vào ngày lẻ, ngay  phía  cuối bãi ngô làng. Mụ vợ lão cứ gồng gánh men theo con đường dọc bãi mà đi. Vãn chợ, mụ về, phần thực phẩm mua cho lão chỉ có hai thanh đậu phụ, thế thôi. Bệnh của lão phải kiêng khem. Hôm nào thèm, chót dại mà chấm mút chút thịt bò, hải sản, nuốt khỏi miệng, chỉ có mà kêu trời. Gần bảy mươi nhưng mụ  vợ lão gân cốt còn khỏe.  Mụ xắn quần lên cao, cặp đùi gái chân dài một thời còn hồng như con gái. Mụ cuốc vườn trồng rau, gánh nước phân, tưới cây nhanh thoăn thoắt. Tôi  đùa lão: “ Này, hỏi thật bác chứ, tháng có còn “tiếp xúc cử tri” được  lần không”? Lão thật thà: “ Quên lâu rồi anh ạ! Từ cái thời bằng tuổi anh, cái đó đã đầu hàng!”

– Thế là bác yếu! Nhiều cụ tám chục vẫn còn muốn cưới vợ cơ đấy!

– Đó là những anh khỏe, không phải đi đâu xa, ăn uống tẩm bổ thường xuyên, chứ tôi, mười mấy năm nằm Biên giới, đi lại nhiều, ăn uống kham khổ, sốt rét kinh niên nên giờ mới thấy yếu tợn.  Còn như cái thằng Trương làng ta đó, nó bằng tuổi tôi , mà da đỏ như  cổ gà chọi, rượu tu cả chai. Chỉ khổ cho nó là lấy phải con vợ già khú, trông như con bú du, gớm chết. Nó khỏe, là vì thời trẻ, nó có phải đi đâu đâu? Hết làm Chủ tịch xã, rồi sang Bí thư. Thời còn bao cấp, gạo thịt của dân, chúng lấy mấy mà chẳng được? Bữa nào chúng ăn cũng như đại tiệc. No xôi chán chè rồi lại tếch lên huyện làm chức phó. Làm cán bộ như hắn, ai chả muốn làm?

Khụt khịt mấy tiếng, lão lại nói, giọng có vẻ đay đả: Đó! Có bằng có cấp chi? Chẳng qua là phe cánh, biết xu thời, nịnh nọt cấp trên, để tiến thân! Thế mà có lần báo chi đăng, bảo hắn là kỹ sư kinh tế đấy! Hắn học vào lúc nào? Thật đúng là một lũ bịp bợm! Chỉ chết những thằng thật thà như tôi.

– Thì bác cũng cán bộ cấp Tỉnh  chứ có thua gì ông ấy?

Lão Mận dừng lại một lúc lâu không nói. Tưởng lão phật ý, tôi định xuê xoa để lão bỏ qua, nhưng không. Lão lên tiếng nhưng giọng khác hẳn,  trầm xuống, như thể ngậm ngùi, chua xót, đắng cay.

– Nếu không nhắc đến thằng ấy, tôi cũng chẳng nói với anh chuyện này. Nhưng tôi không để bụng mãi được. Mà ở cái làng này, phân nửa là họ hàng con cháu nhà hắn. Có muốn nói thì nói thì nói với ai? Tôi tin anh, người có học, lại tử tế, mặc dù anh không phải là  đảng viên. Anh nghe, biết vậy, cũng đừng nói với ai. Cây gậy trong tay lão tự nhiên bị tuột khỏi tay rơi xuống đường. Lão dừng lại, cúi xuống nhặt lên rồi lại tiếp tục câu chuyện.

– Anh còn nhớ mặt con Khánh nhà tôi không? Nó lấy chồng về thành phố từ ngày anh đi thoát ly. Nó kém anh chừng bốn năm  tuổi là cùng. Hôm nay tôi nói thật với anh một điều thật đau xót, nó không phải là con gái ruột của tôi. Hôm nọ, tôi về thành phố thăm nó là để khẳng định lại một lần nữa trước lúc hai tay tôi buông xuôi. Đúng anh ạ! Giỏ nhà ai, quai nhà nấy. Khi người ta càng già thì càng giống cha mẹ. Trông nó bây giờ, giống hệt cái thằng cha hắn! Nhất là cái mũi và hai con mắt. Con gái mắt một mí, nhìn láo liêng như gã ba Tàu. Thì anh bảo, mười mấy năm, tôi nằm tít tận biến giới, để vợ ở nhà, lại làm Hội trưởng hội phụ nữ xã, nay hội mai họp mà lại toàn vào ban đêm. Nghĩ đến cái tao đoạn xa vợ dằng dặc ngày ấy, hình như lão xót xa nên cứ khút khít như khóc. Tôi biết, lão còn đâu nước mắt? Lão đang nuốt ngược cục hận vào trong. Mà làm sao lão lại kể cho tôi nghe chuyện này nhỉ? Có lẽ đời lão thêm bội phần đắng cay là về già chẳng có bạn chí cốt mà tâm sự.

Người giàu kinh nghiệm, gặp phải “ca” này, tốt nhất là chỉ nghe chứ đừng có hỏi, hỏi,  có khác chi cầm dao ngoáy thêm vào vết  đau của người khác?

– Anh có biết vì sao cái lần tôi được rút lên huyện, vài năm sau, lại lên tỉnh không? Lúc ấy, cứ tưởng là mình được cấp trên trọng dụng, nào ngờ, mọi sự  nằm trong âm mưu của nó cả. Sau này, liên kết các sự kiện lại, tôi mới biết cái thằng đó nó thâm thật. Khi đưa tôi lên huyện, nó đã có ý đồ với vợ tôi từ lâu rồi nên mới bố trí cô ta làm Hội trưởng phụ nữ. Hắn chỉ mong cho tôi đi thật xa nhưng chưa có cơ hội. Hóa ra, thằng Chủ tịch huyện ngày ấy lại là con ông chú họ hắn. Gặp đúng đợt Tỉnh đang thiếu cán bộ trẻ có năng lực bổ sung cho tuyến biên giới, thế là tôi dính cước ngay. Lão Mận cười gằn nhưng chỉ nghe hơi thở gằn gặt như khi người ta thông lỗ điếu xì ra. Tôi muốn chuyển câu chuyện đi hướng khác, sợ rằng tâm trạng lão rơi vào trạng thái khó kiểm soát, ảnh hưởng tới sức khỏe của lão nhưng không thể. Lão muốn đang trút bầu tâm sự mà trời còn sớm.

– Tôi làm công tác biên giới được tám năm thì xẩy ra chiến tranh năm 79. Thằng Tàu tổ chức tấn công sang, các cơ quan đoàn thể của ta rút chạy hết. Chúng tôi chẳng kịp mang theo đồ đoàn gì. Không súng ống, không chạy để chúng thiêu sống à? Chúng bắn loại súng gì mà phun ra như thể con rồng lửa, đi đến đâu, lửa cháy ngút trời đến đó! Người chết la liệt, nhà cháy ngút trời.

Tôi ở biên giới đúng mười sáu năm, còn hơn thời gian Thúy Kiều lưu lạc. Ở trên ấy, anh em người ta cũng thương, bảo tôi làm đơn xin về xuôi để gần vợ con, nhưng không biết tại sao, tôi gửi đến dăm bảy lá đơn rồi mà họ vẫn không giải quyết. Mãi cái tết năm tám tám, tay Chủ tịch huyện cũng trạc tuổi tôi, chờ hết khóa về hưu, hắn mới đưa cho tôi xem những lá đơn ngày trước tôi xin chuyển công tác và mục “ý kiến của chính quyền địa phương”, tôi mới ngả ngửa! Thì ra là thế!

Lão Mận thở dốc, nỗi tức giận bị đè nén trong lòng, mấy chục năm qua, giờ mới bật ra. Lão như kiệt sức.

– Thôi bác! Để hôm khác kể, hôm nay bác mệt mà cũng đã muộn rồi.

– Anh cứ để cho tôi kể nốt. Tôi cố đi bộ, rèn luyện lâu nay là để sống lâu, xem đời cái thằng ấy nó có khá hơn ai không? Xem nó có chết trước tôi hay không? Ác giả, ác báo. Nhưng xem ra đến bây giờ nó vẫn còn khỏe lắm. Thì anh bảo,  tiền của vơ được thời đương chức, bây giờ về hưu,  tha hồ bồi dưỡng. Tôi thì trắng tay. Khả năng tôi “đi” trước nó anh ạ.

Lão có vẻ suy sụp, tấm lưng còng như còng thêm. Mãi lúc sau, lão mới nói tiêp:

– Thời điểm đó mà ý kiến của chính quyền địa phương phê như thế này, anh bảo,  có khổ cho tôi không:  “ Gia đình đồng chí Lê Văn Mận hiện nay kinh tế khá, vợ đồng chí là cán bộ cốt cán của xã,  rất đảm đang việc nước việc nhà. Vợ đồng chí tình nguyện để  chồng đi công tác xa,  làm gương cho chị em phụ nữ trong phong trào “ba đảm đang”. Con cái ngoan ngoãn, học hành chăm chỉ. Đồng chí Mận đủ điều kiện công tác Biên giới lâu dài”. Dấu má chứng thực, đóng đỏ choét cả! Anh bảo, như thế thì làm gì tôi chả “chết” ở biên giới mười mấy năm trời? Thế mà mỗi lần tôi về, nó đến nhà,  cứ nói là đồng chí cứ chịu khổ thêm một thời gian nữa, đia phương sẽ có kiến nghị để đồng chí chuyển công tác về gần nhà. Mười mấy năm rồi còn gì? Nó nói như thông cảm với hoàn cảnh của vợ chồng tôi lắm không bằng! Nhưng đúng là cái thằng nó đểu anh ạ! Tôi trực tiếp đưa  đơn xin chuyển, nhờ nó xác nhận hoàn cảnh gia đình vào, để tôi đem ra cơ quan, nó lại bảo: Đồng chí cứ để chính quyền xã  gửi đường bưu điện. Làm thế này, họ lại cho là mình cá nhân, quan hệ tình cảm riêng, mất khách quan. Tôi cứ một lòng tin nó. Anh bảo, cùng là đồng chí trong đảng, không tin nhau thì tin ai?

Thì ra “ cái sự đời” mà lão nói là như thế. Nhưng lão Mận ơi, đời con người có biết bao cái sự. Dù sao những năm tháng cuộc đời, lão cũng đã cống hiến cho dân, cho nước. Người ta có xác nhận như thế, cũng là để tạo điều kiện cho lão cống hiến được nhiều hơn cho dân cho Đảng, chứ theo ý nghĩ của tôi, có ý xấu gì đâu? Bây giờ hoàn thành nhiệm vụ của đảng giao, về hưu ở cái tuổi này cũng là mãn nguyện. Mà giả như bà Khát vợ lão, có trót dại, thì mọi sự cũng đã qua, lão cũng nên rộng lòng mà tha thứ cho bà ấy. Chiến tranh liên miên, bom đạn mù trời, thân gái một mình, đêm hôm mưa gió, chồng xa biền biệt, giữ làm sao cho được? Mà nhất là sự nghiệp chính trị của mình lại trong tay người ta nắm? Lão có cái sự đời của lão, cũng như tôi có cái sự đời của tôi, rồi còn bao nhiêu cái sự đời khác nữa, không nói ra, ai biết? Một cuộc chiến đi qua, giống như cơn bão lớn, tác động, làm thay đổi  bao nhiêu số phận con người. Lão còn sống, còn được lương hưu, dù có thiệt thòi đôi chút, đó là do lão nghĩ thôi chứ còn còn bao nhiêu con người xông pha nơi mũi tên hòn đạn, xác thân vùi lấp nơi rừng xanh, núi thẳm, rồi bao nhiêu gia đình tan tác, thì lão nghĩ sao về họ?

Còn tôi, tôi cũng có cái sự đời của tôi. Tôi nhìn thấy mặt trời sau lão hai mươi năm, vậy mà sự đời tôi gặp cũng có kém vị cay đắng của lão đâu? Tôi không nói  ra thì ai biết? Phải biết im lặng mà chấp nhận nó, lão ạ! Thời cuộc mà!

Tôi lên thành phố thăm thằng con trai, nửa tháng sau mới về. Buổi sáng hôm ấy, trời thật đẹp. Tôi một mình đi trên con đường nội đồng mới đổ bê tông xuyên giữa cánh đồng lúa đang uốn câu. Thời tiết thế này, tôi chắc lão Mận đã đi trước, thế nào ra đường chẳng gặp, định bụng kể cho lão nghe chuyện sắp tới hưu trí được tăng lương, tôi vừa nghe ở Tỉnh để lão vui và nguôi ngoai câu chuyện buồn mà hôm nọ lão trút bầu tâm sự với tôi. Trời  sáng rõ. Lũ cào cào châu chấu động cánh rào rào. Ếch nhái nhóc nhách dưới chân ruộng. Tôi cứ cắm cúi đi. Bỗng tôi sửng người. Hình như trên đường có ai bị ngã? Tôi bước vội đến thì đúng là lão Mận. Lão nằm sấp, hai cẳng chân gầy guộc, bên co, bên thẳng, cái gậy nằm dọc theo thân người. Tôi vội sờ vào ngực, thấy tim lão vẫn còn đập thoi thóp. Hoảng quá, tôi xốc vội lão lên vai rồi chạy quay lại, đưa vội lão về nhà. Hàng xóm chạy đến đông lắm, người cao, người hái trầu không cùng vợ lão đánh gió, xoa ngực bóp tim, lúc lâu sau thì lão tỉnh. Không biết có phải tỉnh hay không nhưng mà lão mở mắt. Đôi mắt lờ đờ, vô hồn nhìn chăm chăm mặt mụ Khát, vợ lão lúc đó đang cúi xuống. Nhưng lão không nói được gì cả. Lúc sau, đầu lão ngoặt sang một bên. Từ hai hốc mắt của lão, rỉ ra mấy giọt lệ đục như nước vo gạo. Thế là hết! Lão Mận ơi! Lão đã ra đi trước kẻ tình thù. Người bạn già của tôi cùng “cái sự đời” từ đây ngàn năm thinh lặng.

Khi đồng chí Bí thư chi bộ còn rất trẻ đọc lời ai điếu, đến cái đoạn kể về công lao đóng góp của lão cho đảng cho dân, tôi liếc mắt nhìn ông Trương, khuôn mặt vuông vức, cái cằm to bạnh ra, hai con mắt trắng dã, một mí hum húp, tay cầm khăn đưa lên lau mắt mấy lần. Rõ ràng là ông ta xúc động trước sự ra đi đột ngột của đồng chí mình, chứ làm chi có cái tao đoạn xấu xa như lão Mận kể với tôi?

Khi người ta khiêng linh cửu lão ra xe tang, tôi thấy bà Khát vợ lão cứ níu lấy mép quan tài, khóc hức hức. Tôi đưa lão ra tận huyệt, ném cho lão nắm đất. Con đường mỗi sớm lão Mận đi bộ cũng là con đường đưa lão ra bãi tha ma..

Chả biết lão Mận xuống suối vàng có được cất nhắc làm quan to để gọi hồn lão Trương hay không, nhưng lão đi được đúng ba tháng rưỡi thì làng cũng nổi kèn trống ò í e đưa lão Trương theo đúng con đường đưa lão Mận lên nghĩa trang Đồi Con Thỏ. Thì ra, ở đời, thật thà hay quái ác, cuối cùng thì cũng như nhau. Đám tang lão Trương do Chi bộ đứng ra tổ chức, cũng to nhưng lời ai điếu không hay và người đi theo không đông bằng đám lão Mận. Có rất nhiều người chỉ đứa đến đầu làng rồi bỏ về. Tôi cũng đi theo quan tài vào tận nơi đào huyệt mộ và thả xuống đấy cục đất. Tranh thủ lúc người ta lấp đất chưa đầy mộ lão Trương, tôi đến lão Mận thắp cho lão nén nhang. Mộ lão đã qua hơn ba tháng, nắng mưa nên hình như có vẻ thấp xuống, các vòng hoa viếng rách nát tả tơi chỉ còn trơ lại khung xương. Thôi thì nghĩa tử nghĩa tận! Tôi cũng đã làm tròn cái tình của người còn sống. Định khấn người bạn vong niên vài câu, nhưng lại thôi, vì dưới cõi âm, bụng dạ ai trên dương trần, xấu tốt, họ biết cả mà…

Một năm sau ngày lão Trương chết, nhân tiết thanh minh, tảo mộ, tôi lại có mặt trên khu nghĩa địa của làng. Vì buổi sáng có việc bận đột xuất, nên  chiều tôi mới đi. Chiều muộn. Khu nghĩa địa chỉ còn thưa thớt  người, chủ yếu ở xa về. Sau khi thắp hương, đặt lễ lên mộ song thân, khấn vái xong, đợi cho hương cháy hết tuần, tôi lại tìm đến ngôi mộ  người bạn vong niên. Qua mộ lão Trương, ngạc nhiên thấy con Khánh, con gái lão Mận từ thành phố chẳng biết về từ khi nào,  đang ngồi phía cuối mộ, gục đầu.  Nghe  tiếng chân người, nó giật mình quay lại, tinh ý,  tôi vội rảo sang hướng khác,  vờ như không biết nó là ai. Mộ lão Mận ở mãi cuối chân đồi. Mới có hơn  năm thôi mà cỏ đã  mọc xanh um, im lìm,  hoang vu  trong làn sương chiều lạnh.  Bát hương trên phần mộ lão Mận tắt ngấm tự khi nào. Tôi chợt bùi ngùi, bật ngọn lửa ga, thắp ba nén  hương cắm lên cho linh hồn lão đỡ tủi. Nhớ lại câu chuyện lão kể với tôi khi đang còn sống, mới ngẫm nghiệm ra cái sự đời của lão,  nó là như thế…

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *