“BÒ BÉO – BÒ GẦY” – VỤ ÁN GÂY CHẤN ĐỘNG VỀ VIỆC CẢ LÀNG CÙNG GIẾT NGƯỜI CƯỚP CỦA

Tháng 5 năm Chính Hoà thứ 15 (1694) thời vua Lê Hy Tông chúa Trịnh Căn, triều đình phát hiện một vụ án chấn động, trải dài 20 năm, liên quan đến hơn ba trăm sinh mạng.

Làng Đa Giá Thượng (vùng Kẽm Trống, Ninh Bình ngày nay) đường núi nhỏ hẹp hiểm trở, lại có nhiều hang hốc. Dân làng ấy đặt riêng khoán ước với nhau, dựng điếm canh đón người qua lại hoặc ngủ trọ tại xã, đến đêm thì bắt giết đi, quăng xác xuống vực rồi cướp lấy của cải. Việc này kéo dài hơn 20 năm, xương trắng chất thành đống.

Theo sử sách vụ án, Làng Đa Giá Thượng nằm ở phía nam, sát bến đò Khuốt, trên đường thiên lý Bắc – Nam, ngay dưới chân dãy núi đá vôi trùng điệp, hiểm trở. Có một bọn trộm cướp hung đồ, khống chế được tất cả các chức sắc trong làng cùng theo, dần dần hình thành cả một làng ăn cướp, có quy định khoán ước với nhau rất chặt chẽ. Vì vậy, hoạt động phạm pháp của cả làng này kéo dài trên 20 năm mà không hề lọt ra ngoài. Chúng lập ra một nhà trạm ven bến đò Khuốt thuộc sông Đáy trên đường thiên lý với “vỏ bọc” là một nghề kinh doanh ăn uống và nghỉ trọ. Chủ quán lúc nào cũng cung cấp đầy đủ rượu ngon có pha thuốc mê, chuốc cho khách no say. Khi khách đang ăn thì có người đi qua hỏi chủ quán:

– Nhà hàng mai có bò không, cho chúng tôi mượn với nhé!

– Có.

– Bò béo hay bò gầy?

– Bò béo!

Khách nghe thế không ngờ rằng đó là ám hiệu của bọn cướp với nhau. Bò béo tức là khách giàu có. Bò gầy là khách nghèo. Bọn cướp căn cứ vào ám hiệu của chủ quán mà quyết định hành động hay không. Đêm đến, khách đang say giấc nồng thì chúng xông vào, trói giật cánh khuỷu, nhét giẻ vào miệng, lôi lên núi đá. Trên núi có một cái hang rất sâu gọi là Kẽm Trống, chúng xô khách xuống hang rồi về chia nhau tiền bạc.

Vào một hôm xa giá của chúa Trịnh Căn đi qua cửa Đại Hưng thì gặp một người phụ nữ, đầu đội một lá đơn, sụp lạy trước kiệu, bị quân lính xua đuổi nhưng nhất quyết không chịu lùi. Chúa cho dừng kiệu rồi sai người dẫn người này tới hỏi chuyện thì mới biết chồng cô đã bị bọn cướp giết, còn cô ấy bị bắt về làm vợ một tên tướng cướp rồi sau hai năm mới trốn ra được. Khi nghe xong câu chuyện và xem đơn của cô, chúa lập tức sai Thạc quận công Lê Thì Hải đem 2.000 quân tiến thẳng về Gia Viễn, bí mật áp sát làng Đa Giá Thượng.

Chiều hôm ấy, có một thầy lang đi qua đò Khuốt rồi vào làng Đa Giá Thượng. Ăn xong, khách nằm lăn ra ngủ. Nửa đêm hôm đó, bọn cướp xông vào. Khách bị trói giật cánh khuỷu, nhét giẻ vào miệng rồi bị dẫn lên hang núi. Nhưng, bọn cướp chưa kịp ra tay thì những tiếng hô vang trong đêm tối làm trấn động cả núi rừng. Tiếng reo hò của 2.000 quân sĩ đồng loạt nổi lên, vây bọc toàn bộ làng Đa Giá Thượng.

Kết quả có đến 290 tên bị bắt. 52 tên đầu sỏ bị hành quyết. Số còn lại bị chặt ngón tay rồi đưa đi khổ sai ở các châu xa. Làng Đa Giá Thượng bị xóa sổ.

Người ta đẵn tre làm thang, nối dây thòng xuống hang Kẽm Trống, xúc được vô số hài cốt, đem lên hỏa táng…

Gần đây, tìm trong kho sách Hán Nôm ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, các nhà nghiên cứu phát hiện thấy có bài Văn tế xót thương u hồn ở xã Đa Giá Thượng (Chuẩn tuất u hồn tại Đa Giá Thượng xã tế văn). Bài văn viết vào tháng 5 năm 1694, không ghi tên người soạn, có thể là môn khách của Thạc Quận công Lê Hải giúp ông soạn thảo để tế các vong hồn, lời văn rất thống thiết, cảm động. Nội dung bài văn cho biết, số người tử nạn cả thảy là 318 người, gồm lái buôn tinh nghệ công thương, nghệ sĩ ở giáo phường hát hay đàn giỏi, người đi hành dịch, có cả những hành khách đi ngao du thưởng ngoạn thắng cảnh non nước. Họ là những người khác quê khác quán, do công việc cần thiết phải đi qua vùng này nên ngộ hại.

Trích trong “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”.

Nguồn: Lạc ngắm nhân gian/Diễn đàn Lịch sử Việt Nam

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *