I. Lời dẫn
Hàn Tín (230 TCN – 196 TCN) là một thống soái nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc với khả năng điều binh khiển tướng cực kỳ lợi hại, được người đời sau suy tôn là Binh Tiên, một trong “Hán sơ Tam kiệt” cùng với Trương Lương cùng Tiêu Hà.
Cuộc đời binh nghiệp của ông là một loạt những chiến tích huy hoàng trong việc đối đầu với quân đội chư hầu và quân Sở của Hạng Vũ – một nhân vật vĩ đại được thần thánh hóa không kém.
Thế nhưng đến cuối đời Hàn Tín lại bị tước hết binh quyền và bị hành quyết bởi Lữ Hậu khiến cho người đời sau cảm thán cùng không tiếc lời nhục mạ đối với Hán Cao Tổ Lưu Bang và Lữ Hậu là hạng người qua cầu rút ván, vong ân phụ nghĩa.
II. Một số sự kiện liên quan đến cái chết của Hàn Tín
(Nguồn sử liệu đều lấy từ Sử ký Tư Mã Thiên)
- Được tiến cử với Lưu Bang
Năm 206 TCN, Hàn Tín đang làm chức Lang Trung phụ trách canh cổng thì bỏ Sở vào Ba Thục theo Hán, được phong chức Liên Ngao coi việc tiếp tân.
- Sau lại phạm tội bị bắt chém, may nhờ Đằng Công (theo Tây Hán Chí là Hạ Hầu Anh) mến tài tâu với Lưu Bang nên Hàn Tín mới thoát khỏi địa vị tội phạm và tội chết, kế đến lại được Lưu Bang bổ nhiệm chức Độ Úy phụ trách thóc lúa.
=> Lưu Bang có ân cứu mạng với Hàn Tín. Thời Tần mạt và Hán – Sở là lúc pháp gia cực thịnh, tội phạm có địa vị thấp hơn cả nô lệ, nên việc Lưu Bang tha mạng cho Hàn Tín là một đặc ân cực kỳ to lớn.
Khi Lưu Bang đi đến Nam Trịnh, Hán Trung, thì Hàn Tín cảm thấy không có hi vọng được trọng dụng nên đã bỏ trốn.
- Điển cố “Tiêu Hà nguyệt hạ truy Hàn Tín” (Tiêu Hà đuổi theo Hàn Tín dưới trăng) ra đời trong hoàn cảnh này. Tiêu Hà dùng uy tín của mình giới thiệu Hàn Tín cho Lưu Bang.
- Lưu Bang nhìn thấy dã tâm cùng tài năng của đối phương nên quyết định bổ nhiệm Hàn Tín từ một tên quan quèn lên chức Đại tướng quân bất chấp sự phản đối và bất mãn của các thuộc tướng cùng nguy cơ quân đội tan rã.
=> Lưu Bang có ân tri ngộ với Hàn Tín.
- Lưu Bang cướp binh quyền
- Lần 1: Năm 205 TCN, liên quân chư hầu bị quân Sở đánh bại ở Bành Thành, Hàn Tín tập hợp binh lính đóng ở Huỳnh Dương, Lưu Bang mang theo tàn quân chạy đến hội hợp và đoạt lấy binh quyền của Hàn Tín.
- Lần 2: Năm 204 TCN, Lưu Bang lệnh cho Trương Nhĩ cùng Hàn Tín đánh nước Triệu. Sau khi bị quân Sở đánh bại ở Thành Cao, Lưu Bang chạy lên phía Bắc đến nước Triệu, nhân đêm lấy ấn tín và binh phù, đoạt lấy binh quyền của Trương Nhĩ cùng Hàn Tín.
=> Lưu Bang có thể dễ dàng khống chế quân đội của Hàn Tín bởi vì thực hiện chế độ quận huyện, trung ương tập quyền ngay từ khi có được địa bàn:
- Hộ tịch: nắm giữ thân nhân, tài sản của tướng lĩnh, binh sĩ.
- Lương thực: nắm giữ địa bàn sản xuất lương thực cung cấp cho quân đội.
- Chỉ huy: Tướng lĩnh cấp cơ sở đến cao cấp vốn là người của Lưu Bang, Hàn Tín không có nhiều thời gian để bồi dưỡng thân tín cho mình.
- Lần 3: Năm 203 TCN, Lưu Bang hẹn Tề Vương Hàn Tín, Kiến Thành Hầu Bàng Việt hợp binh đánh quân Sở nhưng rốt cuộc bị nuốt lời không đến khiến quân Hán bị vây ở Cố Lăng. Lưu Bang phải dùng kế của Trương Lương hứa phong đất thì Hàn Tín, Bàng Việt cùng các chư hầu mới chịu đến vây quân Sở ở Cai Hạ. Năm 202 TCN, sau khi giết được Hạng Vũ, lúc đi đến thành Định Đào thì Lưu Bang đột nhiên xông vào thành cướp đoạt binh quyền của Tề Vương Hàn Tín.
=> Lần thứ 3, Lưu Bang phân hóa chỉ huy cùng hàng binh người Tề, lấy lại quyền chỉ huy quân gốc Hán, nhẹ nhõm đoạt lấy binh quyền của Hàn Tín.
- Bất chấp hậu quả, hại chết đồng liêu
Năm 204 TCN, Hàn Tín đã được lệnh đi về hướng đông nhưng chưa vượt qua sông ở Bình Nguyên thì Lưu Bang đã sai Lịch Sinh (tức Lịch Tự Cơ) làm sứ giả đến nói với Tề Vương Điền Quảng, nên Quảng phản lại Sở, hoà với Hán để cùng đánh Hạng Vũ. Hàn Tín nghe tin muốn dừng lại nhưng sau lại dùng kế của Khoái Triệt đánh úp và phá quân Tề. Tề Vương bỏ Lịch Sinh vào vạc và nấu rồi bỏ chạy về hướng đông ở Cao Mật.
- Dựa thế hiếp người, phản bội tự lập
Năm 203 TCN, Hàn Tín đánh bại Tề Vương Điền Quảng cùng tướng Long Thư của Sở, bình định hoàn toàn đất Tề, còn Lưu Bang đang bị quân Sở vây ở thành Huỳnh Dương. Hàn Tín nhân dịp này sai người đến yêu cầu ép Lưu Bang phong làm Giả Vương nước Tề. Lưu Bang tức giận, nhưng nhờ Trương Lương và Trần Bình ngầm khuyên nên lập tức đổi giọng, phong Hàn Tín trực tiếp thành Tề Vương và lệnh đem quân đến giải vây.
=> Lưu Bang mất quyền khống chế quân đội do Hàn Tín thu được lượng lớn chỉ huy cùng hàng binh quân Tề, chiếm được vựa lúa phương Bắc. Lúc này Hàn Tín mới có lực lượng đòi Lưu Bang phong vương cho mình.
- Lưu Bang bị buộc phải phong Hàn Tín là Tề Vương tức đặt địa vị Hàn Tín ngang bằng mình là Hán Vương, chứ không còn là quan hệ quân thần nữa. Hàn Tín xem như đã phản bội, rời bỏ thế lực của Lưu Bang tự lập thế lực của mình.
- Lợi dụng tình thế bất lợi cho quân Hán, buộc Lưu Bang phải phong thêm đất đai
Năm 203 TCN, Lưu Bang hẹn Tề Vương Hàn Tín, Kiến Thành Hầu Bàng Việt hợp binh đánh quân Sở nhưng rốt cuộc bị nuốt lời không đến khiến quân Hán bị vây ở Cố Lăng. Lưu Bang phải dùng kế của Trương Lương hứa phong đất thì Hàn Tín, Bàng Việt cùng các chư hầu mới chịu đến vây quân Sở ở Cai Hạ.
=> Hàn Tín nhân tình thế quân Hán cấp bách để lấy nhiều đất phong hơn.
- Âm mưu câu kết với thể lực khác để tạo phản, làm rối loạn nhà Hán
Năm 200 TCN, Trần Hy được Lưu Bang phong làm Cự Lộc thái thú, trước khi đi nhậm chức đến gặp Hàn Tín.
- Hàn Tín bèn hẹn ước nếu Trần Hy làm phản, Lưu Bang thân chinh, thì ông sẽ ở kinh đô hưởng ứng dẫn quân nổi loạn.
- Năm 197 TCN, Trần Hy câu kết cùng Hung Nô làm phản nhà Hán ở đất Đại, Lưu Bang thân chinh mời Hàn Tín cùng đi dẹp loạn, nhưng bị ông lấy cớ bệnh từ chối và ở lại Quan Trung, sau đó Hàn Tín cử người gởi mật thư đến Trần Hy để ước hẹn cùng hành động.
=> Theo sử liệu, hành vi tạo phản của Hàn Tín rất rõ ràng, chứng cứ vật chứng xác thực.
- Hàn Tín là đối tượng bị kiểm soát chặt chẽ của nhà Hán, Trần Hy là tướng cầm trọng binh ở biên giới, cả 2 đáng ra không nên gặp nhau, nhưng thực tế cả 2 đã gặp và nói chuyện với nhau nên dù phản hay không phản đã ko cần kiểm chứng nữa.
- Mục đích của Hàn Tín là để Lưu Bang dẫn đại quân xuất chinh, dùng Trần Hy và quân Hung Nô giữ chân quân Hán ở biên cương, sau đó hành thích Lữ hậu cùng Thái tử, buộc Lưu Bang phải quay về ổn định tình hình, tạo điều kiện cho quần hùng nổi loạn. Nếu Lưu Bang không quay về sẽ khiến sĩ khí sa sút dễ dàng chiến bại.
III. Kết luận
- Sơ lược:
Hàn Tín làm dân nước Tần lại theo Sở phản Tần, làm quan nước Sở lại theo Hán đánh Sở, làm quý tộc nước Hán lại cùng người làm phản nước Hán. Cho nên, Hàn Tín là một nhân vật kiêu hùng, thời điểm nên phản bội thì tuyệt đối sẽ không chần chừ.
- Lời bình của người viết
Hàn Tín vốn xuất thân từ một kẻ lang thang nghèo nàn, chỉ chuyên đi ăn chực người khác, nên thường bị mọi người sỉ nhục. Tính cách rất biết nhẫn nhục, lúc cần quyết đoán sẽ không bàn tới bàn lui, là một kẻ kiêu hùng đương thời.
Tài năng quân sự của Hàn Tín được đánh giá là tối cao lúc đương thời, đáng tiếc ở Sở không được trọng dụng, theo Hán lại bị đề phòng. Lưu Bang, Trương Lương, Trần Bình, Tiêu Hà đều là người thông minh, đã sớm nhìn ra tài năng và dã tâm của Hàn Tín.
Bởi thế nên, từ lúc bắt đầu sự nghiệp cầm quân, Hàn Tín chưa có thời điểm nào có được quân đội của riêng mình, tất cả đều là quân đội của người khác và thời gian chỉ huy một đội quân đều không quá lâu, đây là một trong các biện pháp Lưu Bang đề phòng Hàn Tín.
Đến ngay cả lúc Hàn Tín cứng cáp nhất chính là thời điểm sau khi đánh nước Tề và đòi phong Vương, Lưu Bang vẫn cố gắng khống chế ảnh hưởng của Hàn Tín bằng cách phong Tề Vương để Hàn Tín không thể nhanh chóng kiểm soát được tình hình.
Kế đó, sau khi đoạt binh quyền của Hàn Tín lúc kết thúc trận Cai Hạ diệt Sở, Lưu Bang đổi phong Hàn Tín thành Sở Vương, chính là quê quán của ông để chắc chắn Hàn Tín không thể điều động được vật lực.
Cuối cùng, vẫn chưa an tâm, Lưu Bang giáng Hàn Tín thành Hoài Âm Hầu đem an trí ở kinh đô dưới mắt mình để đảm bảo đối phương khỏi có cơ hội lật ngược thế cờ. Vì Hàn Tín, có thể nói Lưu Bang đã tính toán đủ đường.
Bản thân Hàn Tín cũng nhận thức rõ được hoàn cảnh của mình: Năm 203 TCN, Hàn Tín được Lưu Bang phong làm Tề Vương, cầm binh 30 vạn quân cùng kho lúa Tề địa, đủ sức giương cờ tự lập thành chư hầu một phương. Hạng Vũ nhận ra điều đó liền sai sứ giả đến làm thuyết khách, mưu sĩ Khoái Triệt của Hàn Tín cũng khuyên ông tự lập nhưng Hàn Tín không đồng ý.
=> Hàn Tín lo sợ thời gian nắm quyền quá ngắn, không thể triệt để chưởng khống quân đội trong tay và không thể gây áp lực đủ lớn để quý tộc nước Tề vừa mất nước phục tùng nếu đối đầu với Lưu Bang.
Kỳ thật, Lưu Bang chưa từng cả trong thực tế lẫn suy nghĩ cho rằng có thể trực diện chiến thắng quân Sở của Hạng Vũ, bởi quân Sở quá mạnh, mục tiêu của Lưu Bang chính là hậu phương cùng hậu cần quân Sở, thậm chí tất cả các chư hầu.
Bởi thế, Lưu Bang luôn đặt chiến trường nằm ngoài địa phận quản hạt của quân Hán, vùng Quan Trung và Ba Thục được hưởng thanh bình trong khi các vùng khác chiến hỏa liên miên. Đây là độc kế tuyệt hậu, có lẽ là tác phẩm của Trương Lương, Trần Bình hoặc Tiêu Hà.
Cho nên dù đánh nhau như thế nào đi nữa thì quân Hán của Lưu bang chắn chắn sẽ là bên thắng cuối cùng, mặc kệ có Hàn Tín hay không. Lẽ tất yếu, đến khi Lưu Bang phân phong công thần thì Tiêu Hà là số 1, kế tiếp đến là Trương Lương.
Mối quan hệ giữa Hàn Tín và Lưu Bang coi như đã tan vỡ khi Hàn Tín đòi phong Vương tự lập ngang hàng với Lưu Bang. Cộng với việc tự tiện đánh Tề khiến sứ giả quân Hán bị giết càng khiến cho Lưu Bang cay cú.
Đến khi bị giam lỏng ở kinh thành mà Hàn Tín vẫn giữ lại môn khách cùng nô lệ khiến cho Lưu Bang cảm thấy bị uy hiếp. Cuối cùng muốn câu kết phản quân tạo phản, bị người tố cáo nên bị xử quyết, chứ nếu không Hàn Tín hoàn toàn có thể xé nát nhà Hán, một lần nữa đưa thiên hạ trở về thời kỳ Chiến quốc.
Cho nên, theo quan điểm việc chính sử Trung Quốc xác định Hàn Tín mưu phản là không có tranh luận, cái chết của ông là xứng đáng với quan niệm thời kỳ đó.
Bởi thế, nên mới có việc lúc đầu Đường Thái Tông đưa Hàn Tín vào Võ miếu để thờ phụng vì những chiến công trác tuyệt của ông, nhưng đến thời Tống Thái Tổ lại dời Hàn Tín ra khỏi Võ miếu vì vấn đề “Trung nghĩa”, đến các triều đại tiếp theo thì vấn đề trung nghĩa ngày càng được coi trọng nên từ đó về sau Hàn Tín không được các đời đế vương thờ phụng trong Võ miếu thuộc hệ thống Đế Vương miếu nữa.

Ảnh: sưu tầm