Báo cáo đặc biệt về Chiến tranh lạnh Mỹ – Trung
4. Mỹ vẫn dẫn đầu về công nghệ, nhưng Trung Quốc đang bắt kịp nhanh
Một điều hiếm gặp đã xảy ra tại một khu công nghiệp gần Washington, DC, vào tháng 11 năm ngoái. Dự án mở rộng trị giá 3 tỷ đô la của một nhà máy thiết bị bán dẫn thuộc sở hữu của Micron Technologies, nhà sản xuất chip nhớ tiên tiến, có trụ sở tại Idaho, bắt đầu tiến hành xây dựng. “Mấy năm trước, nếu mở rộng nhà máy kiểu như vậy sẽ có người nói rằng nó sẽ sớm được chuyển đến Trung Quốc, phải không?”, James Mulvenon, một chuyên gia về chính sách và gián điệp không gian mạng của Trung Quốc, nói.
Nhưng bây giờ thì khác. Thay vào đó, nhà máy của Micron cho thấy viễn cảnh tương lai. Niềm tin vào Trung Quốc đã sụp đổ trong giới quan chức chính phủ cũng như lãnh đạo doanh nghiệp Mỹ, và một sự đồng thuận đã tăng lên cho rằng các công ty Trung Quốc đã thu hẹp khoảng cách công nghệ với các đối thủ phương Tây một cách không đàng hoàng và bằng các biện pháp bất hợp pháp.
Những căng thẳng ngày nay làm cho cuộc Chiến tranh Lạnh hồi thế kỷ trước trông có vẻ đơn giản. Năm 2018, Trung Quốc chiếm 57% doanh thu thuần của Micron. Trong những năm 1960 và 1970, các công ty công nghệ Mỹ không phụ thuộc vào khách hàng Liên Xô. Nhưng Micron là một biểu tượng cho thấy cạnh tranh thương mại đang trở thành một cuộc đấu có tổng bằng không, trong đó một bên thắng và một bên thua. Vào năm 2015, Micron đã từ chối một đề nghị mua lại trị giá 23 tỷ đô la đến từ một quỹ đầu tư do nhà nước Trung Quốc hậu thuẫn, nói rằng họ tin một thỏa thuận như vậy sẽ bị Ủy ban Đầu tư nước ngoài tại Hoa Kỳ (CFIUS) bác bỏ. Năm 2018, Bộ Tư pháp đã truy tố một công ty nhà nước Trung Quốc, đối tác Đài Loan của công ty này và ba cá nhân về tội đánh cắp bí mật thương mại liên quan đến công nghệ chip nhớ của Micron, một công nghệ có giá trị hàng chục tỷ đô la. Chuyện này diễn ra sau các vụ kiện qua lại, theo đó công ty bị buộc tội của Trung Quốc khẳng định rằng họ sở hữu các bằng sáng chế có liên quan ở Trung Quốc và do đó chính họ mới là nạn nhân của Micron. Một tòa án Trung Quốc ủng hộ cáo buộc này, sau đó Micron bị điều tra theo luật chống độc quyền.
Những người có quan điểm diều hâu với Trung Quốc ở Washington nói rằng trò chơi có tổng bằng không này đều xoay quanh việc Trung Quốc vi phạm pháp luật. “Nói một cách thẳng thắn, Trung Quốc dường như quyết tâm ăn cắp để leo lên nấc thang kinh tế, và chúng ta là người chịu thiệt hại”, Christopher Wray, giám đốc của FBI, tuyên bố như vậy vào ngày 26/04, đồng thời nói thêm rằng gần như tất cả 56 văn phòng của cơ quan này đều đang điều tra các vụ gián điệp kinh tế mà trong đó “gần như luôn luôn liên quan tới Trung Quốc”. Trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 11 năm 2018, Bộ Tư pháp Mỹ đã truy tố hàng chục cá nhân và tổ chức mà chính phủ Trung Quốc chỉ đạo để đánh cắp các bí mật thương mại từ 15 công ty, chủ yếu trong ngành hàng không vũ trụ và công nghệ cao.
Những người khác thì nói rằng trò chơi có tổng bằng không này liên quan đến những lời hứa bị phá vỡ đối với người lao động Mỹ. Họ nhắc lại chuyện các lãnh đạo chính trị Mỹ hứa hẹn với các công nhân rằng các ngành sản xuất giá trị cao sẽ ở lại Mỹ, ngay cả khi toàn cầu hóa đưa các việc làm lương thấp sang Trung Quốc.
Sử dụng vị thế chủ tịch ủy ban Thượng viện về doanh nghiệp nhỏ và tinh thần kinh doanh, Thượng nghị sĩ Marco Rubio đại diện bang Florida vào tháng 2 vừa qua đã đưa ra một báo cáo lên án kế hoạch của Trung Quốc nhằm trở thành cường quốc toàn cầu trong mười lĩnh vực công nghệ cao, từ trí tuệ nhân tạo (AI) đến hàng không, được xác định trong chiến lược Made in China 2025 (MIC2025) do chính phủ Trung Quốc ban hành năm 2015. Ông Rubio viết trong báo cáo rằng nếu Mỹ để Trung Quốc trở thành lãnh đạo toàn cầu về đổi mới và chế tạo “thì đó sẽ là một kết quả không thể chấp nhận được đối với người lao động Mỹ”.
Trong một biểu hiện dân túy, ông Rubio cũng không ngại lập luận rằng chính phủ có vai trò trực tiếp trong việc bảo vệ các công nhân cổ cồn xanh. Ngành chế tạo cung cấp việc làm ổn định hơn so với ngành dịch vụ, báo cáo của Rubio cho biết. Báo cáo này kêu gọi Mỹ sử dụng các chính sách công nghiệp, bao gồm các thay đổi về thuế và kiểm soát xuất khẩu, để bảo vệ các ngành công nghiệp từ robot đến chế tạo máy kéo.
Đó là ăn cắp
Không phải mọi thượng nghị sĩ đều có tiếng nói thẳng thắn như ông Rubio, và nhiều người cũng không thích kiểm soát xuất khẩu. Nhưng sự mất lòng tin sâu sắc vào Trung Quốc là một tình trạng lưỡng đảng trong Quốc hội. Quan điểm của các doanh nghiệp Mỹ ở Trung Quốc có phần cân bằng hơn, như có thể thấy trong cuộc khảo sát công bố hồi tháng Hai về môi trường kinh doanh năm 2019 của Phòng Thương mại Mỹ ở Trung Quốc. Gần 70% các công ty nói rằng họ có lợi nhuận. Tuy nhiên, vẫn có những dấu hiệu cảnh báo. Trong khảo sát của AmCham, một nửa các công ty công nghệ Mỹ cho biết họ hạn chế đầu tư vào Trung Quốc vì ở đây thiếu cơ chế bảo vệ tài sản sở hữu trí tuệ (IP), bất chấp việc Trung Quốc hứa hẹn sẽ nghiêm túc về vấn đề này nhiều năm nay.
Trung Quốc đã cứng rắn hơn đối với các hành vi vi phạm bản quyền, từ hàng tiêu dùng giả cho đến vi phạm bằng sáng chế. Nhưng các giám đốc điều hành nước ngoài vẫn kể những câu chuyện kinh hoàng về áp lực phải chia sẻ bí mật thương mại với đối tác địa phương và các cuộc tấn công mạng vào máy chủ của công ty ở quê nhà. Đáng buồn thay, 13% các công ty thành viên được khảo sát bởi AmCham nói rằng rủi ro lớn nhất của họ là tình trạng trộm cắp bởi chính nhân viên của mình.
Có một số cách mà sự cạnh tranh kinh tế có thể trở thành trò chơi có tổng bằng không, và tất cả có thể được nhìn thấy ở Trung Quốc ngày nay. Trộm cắp chỉ là một. Một cách khác là theo đuổi thay thế nhập khẩu bằng các lựa chọn khác trong nước, thông qua các biện pháp công bằng hoặc gian lận. Nước Mỹ đang rơi vào tình trạng mất lợi thế, nhưng Mỹ vẫn là chủ nhà của các công ty dẫn đầu toàn cầu trong các ngành từ hàng không vũ trụ và chất bán dẫn đến phần mềm và xe tự lái. Các quan chức Mỹ lo ngại rằng MIC2025 sẽ giúp Trung Quốc trở thành một quốc gia đẳng cấp thế giới trong tất cả các lĩnh vực đó.
Kể từ năm 2015, các kế hoạch hỗ trợ và lộ trình được công bố bởi các cơ quan nghiên cứu của chính phủ đã đặt ra hàng trăm mục tiêu chiếm lĩnh thị phần cho các công ty Trung Quốc, ví dụ, 80% xe điện hoặc xe lai “năng lượng mới” tiêu thụ ở Trung Quốc phải được sản xuất trong nước vào năm 2025. Các quan chức Trung Quốc, giờ đối mặt với phản ứng dữ dội trên toàn thế giới, hiện đang giấu nhẹm các mục tiêu này. Các phương tiện truyền thông nhà nước bị kiểm duyệt nghiêm ngặt đã ngừng sử dụng thuật ngữ MIC2025. Nhưng chính sách này đã không được bãi bỏ. Các bài phát biểu của lãnh đạo vẫn kêu gọi “tự lực” và “tự đổi mới”. Các lĩnh vực công nghệ khác của Trung Quốc cũng đang được khuyến khích tuân thủ chính sách gọi là “hợp nhất dân sự – quốc phòng”, một chiến lược quốc gia được hậu thuẫn bởi các lãnh đạo hàng đầu và được tài trợ bởi các khoản ngân sách an ninh quốc gia không minh bạch.
Việc quân sự hóa một số công nghệ của Trung Quốc gây ra các chi phí bên cạnh lợi ích, ông Mulvenon lưu ý. Những chi phí đó bao gồm các rủi ro cho các công ty phương Tây khi làm các hợp đồng hỗ trợ cho các công nghệ tàn bạo mà Trung Quốc đã áp dụng ở Tân Cương. “Tin tốt là người Trung Quốc sẽ phát hiện ra rằng sự tự cung tự cấp như vậy là rất khó”, Mulvenon nói, đồng thời cho rằng người Mỹ đã chứng kiến Trung Quốc ăn cắp và thiết kế ngược một thế hệ công nghệ rồi sau đó vẫn phải đánh cắp thế hệ tiếp theo vì không thể làm chủ được các nền tảng khoa học cơ bản. “Mô hình đó cực kỳ kém hiệu quả”.
Trung Quốc sẵn sàng chi tiền nếu cần, hỗ trợ cho những công ty chủ chốt hàng tỷ đô la tiền trợ cấp và thúc đẩy các công ty địa phương đặt hàng. Trong số những công ty hưởng lợi có Tập đoàn Máy bay Thương mại Trung Quốc (CMAC), công ty sản xuất máy bay thương mại C-919 được dự kiến sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với dòng 737 của Boeing. Các nhà lập kế hoạch nhà nước đã đặt mục tiêu máy bay vận tải Trung Quốc phải chiếm được 10% thị phần trong nước vào năm 2025. C-919 đã gặp phải những rắc rối, khiến cho thời hạn đó có vẻ quá tham vọng. Nhưng thành công của Trung Quốc có thể nhanh chóng gây thiệt hại cho Mỹ, khi hạng mục xuất khẩu lớn nhất của Mỹ sang Trung Quốc vào năm 2017 là máy bay dân sự, trị giá 16,3 tỷ đô la. Báo cáo của Rubio phàn nàn rằng ít nhất mười công ty Mỹ cung ứng các bộ phận quan trọng cho C-919.
Trung Quốc đã tạo ra các thương hiệu lớn trong các lĩnh vực như xe điện và pin, một phần bằng cách ngăn cản các đối thủ nước ngoài. Rào cản bảo hộ cũng đã cho phép các công ty internet Trung Quốc phát triển. Hồi năm 2009, mười công ty internet lớn nhất theo doanh thu đều của Mỹ. Nhưng bây giờ vài trong số đó là của Trung Quốc
Tuy nhiên, sẽ sai lầm nếu phóng đại sức mạnh của Trung Quốc trong lĩnh vực phân tích dữ liệu lớn và AI, theo Dieter Ernst thuộc Trung tâm Đông-Tây, một viện nghiên cứu ở Hawaii. Việc thiếu cơ chế bảo vệ quyền riêng tư gần như hoàn toàn có thể khiến nhiều dữ liệu bị mất, trong khi các công ty Mỹ giỏi hơn về các thuật toán tiên tiến giúp AI bớt phụ thuộc vào các tập dữ liệu lớn, Ernst viết. Các ứng dụng lớn của Trung Quốc vẫn chủ yếu được vận hành dựa trên các chip do Mỹ thiết kế, vốn vẫn đang dẫn đầu thế giới.
Mỹ còn có những lợi thế khác. Joy Dantong Ma đến từ MacroPolo, nhà viện nghiên cứu thuộc Viện Paulson, đã kiểm tra nguồn gốc của các diễn giả hàng đầu tại một hội nghị danh tiếng nhất về AI. Hầu hết đến từ các trường đại học và công ty công nghệ Mỹ. Nhưng điều quan trọng là hơn một nửa những ngôi sao người Mỹ đó được sinh ra ở nước ngoài. Chính sách thắt chặt thị thực của Trump sẽ đe dọa tới thực tế đó.
Một số hình thức cạnh tranh có thể công bằng nhưng vẫn kết thúc với một bên giành được nhiều lợi ích hơn. Đáng chú ý, một số lĩnh vực công nghệ mang lại lợi thế cho người tiên phong, trao phần thưởng lớn cho các quốc gia hoặc doanh nghiệp dẫn đầu sớm, cho phép họ đặt ra các tiêu chuẩn mà những người tham gia sau này không có nhiều lựa chọn nào khác ngoài việc tuân theo. Hồi tháng Tư, Ủy ban Đổi mới Quốc phòng, một ủy ban cố vấn của Lầu Năm Góc gồm các ngôi sao sáng ở Thung lũng Silicon, đã đưa ra một báo cáo cảnh báo rằng Trung Quốc đang trên đường đạt được thành công này trong cuộc đua nhằm thống trị mạng di động 5G. Thế hệ công nghệ không dây tiếp theo này hứa hẹn sẽ cách mạng hóa các ngành công nghiệp hiện có và tạo ra những ngành hoàn toàn mới với tốc độ dữ liệu gấp khoảng 20 lần so với mạng 4G.
Một thập niên trước, các công ty Mỹ đã dẫn đầu sớm trong công nghệ 4G, thiết lập các tiêu chuẩn cho các thiết bị cầm tay mới và các ứng dụng phổ biến trên toàn thế giới. Sự thống trị đó đã giúp Apple, Google và các doanh nghiệp Mỹ khác tạo ra doanh thu hàng tỷ đô la. Trung Quốc đã học được bài học của mình, đầu tư 180 tỷ đô la để triển khai mạng 5G trong năm năm tới và giao các dải tần số không dây cho ba nhà mạng nhà nước. Ở Mỹ, các dải tần số như vậy phần lớn không được dùng cho mục đích thương mại vì nó được ưu tiên sử dụng bởi chính phủ liên bang. Các công ty Mỹ đang thử nghiệm trên các dải tần số có một số lợi thế nhất định trong điều kiện phòng thí nghiệm nhưng dễ bị chặn bởi các tòa nhà và cây cối. Vì lý do này, bất chấp áp lực của Mỹ đối với các đồng minh, phần lớn thế giới có thể sẽ chọn các thiết bị cầm tay, chip và tiêu chuẩn của Trung Quốc, ủy ban cố vấn của Lầu Năm Góc kết luận. Vì các lực lượng vũ trang Mỹ cần hoạt động trên toàn thế giới, họ sẽ phải chuẩn bị gửi dữ liệu thông qua một thế giới công nghệ không dây “hậu phương Tây” và thông qua các mạng “không tin cậy”, được lắp đặt với các thành phần do các công ty Trung Quốc như Huawei cung cấp. Điều đó có nghĩa là Mỹ sẽ phải tập trung nhiều hơn vào mã hóa và bảo mật.
Mạng internet bị chia rẽ
Một số cuộc ganh đua công nghệ sẽ bớt tàn khốc hơn. Khi Trung Quốc và Mỹ tách khỏi thị trường kỹ thuật số của nhau, mỗi bên sẽ tìm kiếm tăng trưởng ở phần còn lại của thế giới. Một thế giới mạng bị chia cắt, hay còn gọi là “splinternet”, đã trở thành hiện thực, khi mạng internet ở Trung Quốc phát triển đằng sau một bức tường lửa kiểm duyệt. Các công ty lớn của Mỹ như Amazon đang quảng bá dịch vụ thanh toán ở Ấn Độ. Dịch vụ Alipay của Trung Quốc đang tích cực hoạt động tại Brazil. Trung Quốc đang xuất khẩu các hệ thống giám sát và thuật toán kiểm duyệt cho các quốc gia độc tài từ Ethiopia đến Venezuela. Với một sự thay đổi đường hướng, Mỹ có thể giúp thúc đẩy một mạng internet tôn trọng sự riêng tư. Các công ty y sinh và các phòng thí nghiệm chỉnh sửa gen phương Tây có thể giúp tiêu chuẩn đạo đức trở nên nghiêm ngặt hơn.
Thật đáng lo khi ông Trump là một người không thân thiện với công nghệ. Ông đã đề xuất giảm ngân sách cho các quỹ nghiên cứu khoa học, mặc dù Quốc hội đã bác bỏ điều đó. Sau hai vụ tai nạn máy bay của Boeing 737 Max gần đây, ông đã tweet rằng “máy bay giờ trở nên quá phức tạp để vận hành”. Tuy nhiên, năm ngoái ông Trump cũng đã ký một dự luật lưỡng đảng cho phép chi 1,3 tỷ đô la cho nghiên cứu máy tính lượng tử. Mục đích là để dẫn trước Trung Quốc trong ngành máy tính khai thác các định luật vật lý lượng tử để đạt được tốc độ xử lý vốn chỉ thấy trong các bộ phim khoa học viễn tưởng. Nước Mỹ vẫn đang dẫn đầu lĩnh vực này, nhưng Tập Cận Bình coi đó là ưu tiên quốc gia, thu hút các nhà khoa học trở về từ các phòng thí nghiệm lượng tử ở Mỹ và Châu Âu. Nếu Trung Quốc thành công, họ có thể phát triển các liên lạc vệ tinh và radar lượng tử gần như không thể hack được để phát hiện các máy bay và tàu ngầm có khả năng tàng hình cao nhất.
Một thành công như vậy sẽ biến một cuộc ganh đua công nghệ thành một cuộc chạy đua vũ trang. Lúc đó Mỹ sẽ phải quyết định liệu một Trung Quốc như thế còn có thể răn đe được hay không, hay liệu một ngày nào đó nó có thể sử dụng các năng lực mới (để chống lại Mỹ).
5. Quan hệ quân sự Mỹ – Trung cần có quy tắc
Bíp, bíp, bíp… và Sputnik 1, vệ tinh đầu tiên đã được phóng lên quỹ đạo Trái đất vào năm 1957. Việc nó không có công dụng gì mấy chẳng quan trọng. Việc những người cộng sản Liên Xô giành chiến thắng trong cuộc chạy đua vũ trụ đầu tiên đã gây ra một cuộc khủng hoảng niềm tin cho người Mỹ. Điều này đã có tác dụng hữu ích. Ở nước ngoài, Mỹ tăng cường các liên minh như NATO. Ở trong nước, những khoản tiền lớn đã được đổ vào nghiên cứu khoa học. Cuộc khủng hoảng Sputnik tạo cảm giác sự vô tư không còn nữa: kẻ thù đã ở trên đầu. Nhưng mối đe dọa thực tế của Liên Xô đã không thay đổi nhiều. Liên Xô, như trước đây, vẫn là một kẻ thù được trang bị vũ khí hạt nhân đang cố gắng truyền bá một hệ tư tưởng đối địch.
Bây giờ Mỹ cũng đang có một cuộc khủng hoảng niềm tin về Trung Quốc, và nguyên nhân không phải là một khoảnh khắc Sputnik mà là nhiều khoảnh khắc nhỏ hơn liên tiếp. Nói chuyện với các chiến lược gia ở Mỹ và Trung Quốc, các sĩ quan quân đội, chính trị gia, giới chủ doanh nghiệp và các học giả, người ta sẽ thấy sốc khi nhiều người nói rằng nguy cơ xảy ra một cuộc xung đột hạn chế không nên bị đánh giá thấp.
Một phần là do lực lượng vũ trang của Trung Quốc đang bắt kịp rất nhanh. Nước Mỹ mất 17 năm để thành thạo trong việc gửi máy bay không người lái đi tìm diệt các nghi phạm khủng bố cách nửa vòng trái đất. Trong khi đó, Trung Quốc đã cho loại biên các vũ khí cũ kỹ của Liên Xô và mua sắm các máy bay chiến đấu và tàu chiến tiên tiến. Trung Quốc đã đầu tư các loại tên lửa chống hạm để tăng phí tổn cho sự can thiệp của Mỹ vào các vùng biển gần, cũng như đầu tư vào các biên đội tàu ngầm (mặc dù tàu ngầm của Trung Quốc vẫn ồn hơn so với tàu ngầm Mỹ). Trung Quốc còn củng cố các đảo đá và rạn san hô tại vùng biển tranh chấp ở Biển Đông với tên lửa, vòm radar và đường băng (trong hình). Chủ tịch Tập Cận Bình kêu gọi hải quân phát triển tư duy biển, khi giờ đây các mối quan hệ thương mại và an ninh đã gắn Trung Quốc – trong hàng thiên niên kỷ là một cường quốc nông nghiệp hướng nội – với biển cả. Trung Quốc có ưu thế dẫn đầu về vũ khí lượn siêu âm, những tên lửa di chuyển với tốc độ một dặm một giây chống lại các tàu sân bay mà hiện không có hệ thống phòng thủ nào đủ tin cậy để chống lại. Nếu hỏi về những điểm yếu của Trung Quốc, các sĩ quan Mỹ sẽ đề cập đến các chuỗi chỉ huy cứng nhắc, ít trao quyền tự chủ cho các sĩ quan cấp dưới. Họ cũng không rõ các nhánh khác nhau của quân đội Trung Quốc có thể phối hợp với nhau trong các nhiệm vụ phức tạp như xâm lược Đài Loan, hòn đảo dân chủ mà Trung Quốc tuyên bố là lãnh thổ của mình, hay không.
Chiến tranh toàn diện liên quan đến Đài Loan không phải là điểm nóng khẩn cấp nhất. Báo cáo Sức mạnh Quân sự Trung Quốc mới nhất, được Lầu Năm Góc gửi cho Quốc hội hàng năm, “không nhận thấy dấu hiệu nào cho thấy Trung Quốc đang mở rộng đáng kể lực lượng tàu đổ bộ cần thiết cho một cuộc tấn công đổ bộ vào Đài Loan”. Thay vào đó, các nhà hoạch định đang lo lắng hơn về những nỗ lực của Trung Quốc nhằm đẩy Mỹ ra khỏi các vùng biển gần và ra ngoài “chuỗi đảo đầu tiên”, bao gồm Nhật Bản và Đài Loan. Các tàu và máy bay Mỹ thường xuyên khẳng định quyền đi qua Biển Đông theo luật quốc tế, gây ra những phản ứng từ Trung Quốc vốn có thể leo thang một cách khó lường.
Cuộc cạnh tranh trong vũ trụ
Kỷ nguyên của sự ngờ vực hiện nay cũng có một vệ tinh mang tính biểu tượng của Trung Quốc, đó là Shijian 17. Dù chính thức là một tàu thử nghiệm chuyên kiểm tra các hệ thống đẩy và thiết bị chụp ảnh mới để phát hiện rác vũ trụ, các nhà khoa học Mỹ và các lãnh đạo quân sự đã chứng kiến SJ-17 thực hiện các thao tác đáng chú ý kể từ khi ra mắt vào năm 2016, ví dụ như di chuyển giữa ba vệ tinh khác nhau của Trung Quốc trên không gian và tự dừng lại cách các vệ tinh khác trong khoảng cách vài trăm mét. Trung Quốc, giống như Mỹ, cũng đang trở nên thành thạo nghệ thuật tác chiến chống vệ tinh. Trung Quốc thử nghiệm tên lửa phá hủy vệ tinh lần đầu tiên vào năm 2007, tạo ra các mảnh vỡ trong không gian, và được cho là đã thử nghiệm các thiết bị laser và gây nhiễu chống vệ tinh. Năm ngoái, Phó Tổng thống Mike Pence đã nêu các hoạt động vệ tinh “rất tinh vi” của Trung Quốc như là một trong những lý do để thành lập “Lực lượng Không gian”, một quân chủng mới với sự tham gia của rất nhiều chuyên gia.
Các nhà chiến lược nói về sự khác biệt giữa khả năng và ý định. Cảm giác lo lắng về Trung Quốc đang làm xói mòn sự khác biệt đó. Khi Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Trung Quốc, một ủy ban giám sát của Quốc hội Mỹ, tổ chức một phiên điều trần về các chương trình không gian của Trung Quốc vào tháng trước, đại diện Lầu Năm Góc, William Roper (trợ lý bộ trưởng không quân phụ trách mua sắm, công nghệ và hậu cần), đã lưu ý rằng ủy ban đang thực sự đặt câu hỏi liệu Mỹ có đang cạnh tranh chiến lược với Trung Quốc trong không gian hay không. “Tôi hy vọng ủy ban kết luận là có”, ông nói trước ủy ban. Dù nhắc đến vị trí dẫn đầu với khoảng cách xa của Mỹ trong không gian, khi Mỹ triển khai hơn một nửa số vệ tinh gián điệp được tuyên bố trên thế giới – Roper khẳng định rằng “các quốc gia như Trung Quốc đã thể hiện ý định đưa sự thù địch lên vũ trụ”.
Tổng thống Donald Trump rất nghiêm túc với ý tưởng rằng Trung Quốc là một thách thức trong không gian, theo lời Michael Pillsbury, một cố vấn theo hợp đồng của Nhà Trắng. “Lực lượng Vũ trụ là nhằm vào Trung Quốc”. Ông thể hiện sự bất an trước 38 lần phóng vệ tinh của Trung Quốc trong năm 2018, vượt qua 34 lần của Hoa Kỳ
Tâm trạng lo lắng bao trùm lưỡng đảng. Một đánh giá về các mối đe dọa trong không gian được công bố vào tháng Tư bởi Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế, một viện nghiên cứu ở Washington, DC, đã mở đầu với một cảnh báo từ Jim Cooper (bang Tennessee), một đảng viên Dân chủ và là chủ tịch tiểu ban Hạ viện giám sát chương trình vũ trụ: “Nguy cơ về một trận Trân Châu Cảng trong không gian đang tăng lên mỗi ngày… Nếu không có các vệ tinh, chúng ta sẽ rất khó khăn khi tái tập hợp và chiến đấu chống trả. Chúng ta thậm chí có thể không biết ai đã tấn công chúng ta, chúng ta sẽ bị điếc, câm, mù và bất lực”.
Các chuyên gia Trung Quốc nghi ngờ sự hoảng sợ đó. Rốt cuộc, Mỹ đã thử nghiệm vũ khí chống vệ tinh đầu tiên vào năm 1959 và hầu hết các thành tích trong không gian của Trung Quốc, từ các chuyến bay có người lái đến việc tạo ra một mạng lưới các vệ tinh định vị, đã được Mỹ tiến hành nhiều thập niên trước.
Một chiến lược gia biển hàng đầu, Hu Bo tại Đại học Bắc Kinh, phàn nàn rằng người Mỹ có thói quen xấu là coi các ý định và khả năng của Trung Quốc là một và giống nhau, có lẽ vì Mỹ coi sức mạnh của Trung Quốc “là xấu xa một cách cố hữu”. Ngay khi Trung Quốc có một tên lửa có tầm bắn đủ vươn tới đảo Guam, Mỹ đã buộc tội Trung Quốc “đang đe dọa đảo Guam”, ông nói thêm. Nếu theo logic tương tự thì Bắc Kinh đang gặp nguy hiểm, vì nó nằm trong tầm tấn công của máy bay ném bom và tên lửa của Mỹ. “Nhưng Trung Quốc không đi khắp nơi tuyên bố rằng Hoa Kỳ đang đe dọa Bắc Kinh”. Ông Hu thấy một nước Mỹ đã quen với cảm giác “không thể bị đe dọa”.
Một bất bình phổ biến trong giới làm về an ninh quốc gia của Trung Quốc là tâm trạng của Mỹ có thể thay đổi rất đột ngột, mặc dù các lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, từ các yêu sách lãnh thổ đối với Đài Loan tới việc bảo vệ hệ thống độc đảng, đã không thay đổi trong nhiều thập niên qua.
Nước Mỹ đã thay đổi, rất nhiều. Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) năm 2006 tuyên bố rằng Mỹ “tìm cách khuyến khích Trung Quốc đưa ra những lựa chọn chiến lược đúng đắn cho người dân của họ, trong khi chúng tôi phòng bị các khả năng khác”. Bản NSS năm 2017 gọi chính sách can dự nhìn chung là một thất bại và cáo buộc rằng “Trung Quốc đang tìm cách thay thế Hoa Kỳ tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, mở rộng ảnh hưởng của mô hình kinh tế do nhà nước chỉ huy và sắp xếp lại trật tự khu vực theo hướng có lợi cho Trung Quốc”.
Các chuyên gia an ninh Trung Quốc cho rằng lời giải thích là rất đơn giản, nằm ở sức mạnh quân sự và kinh tế đang gia tăng của Trung Quốc, theo Zhao Tong, chuyên gia tại Trung tâm Carnegie- Tsinghua về Chính sách Toàn cầu, một viện nghiên cứu có trụ sở tại Bắc Kinh. Tuy nhiên, ông nhìn thấy lỗ hổng trong lập luận đó. Sự thay đổi thái độ của Mỹ là rất nhanh, trong khi sự trỗi dậy của Trung Quốc diễn ra từ từ. Ông Zhao có một lời giải thích khác. Không chỉ là Trung Quốc mạnh hơn, mà Trung Quốc còn trở nên sẵn sàng hơn trong việc thể hiện sức mạnh đó – một sự quyết đoán liên quan đến việc nhấn mạnh hơn yếu tố ý thức hệ trong chính trị nội bộ Trung Quốc. Điều đó khiến thế giới nhận ra rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất cứ điều gì giống với các giá trị phương Tây, ông Zhao lập luận.
Những sự hiểu lầm khác cũng còn đó. Khi các nước láng giềng nhỏ hơn phàn nàn rằng Trung Quốc đang đe dọa họ, các quan chức an ninh Trung Quốc lại tin chắc rằng Mỹ đang kích động các nước đó. Cách họ nói lên điều đó, rằng Trung Quốc hành động cứng rắn là nhằm tự vệ, cho thấy Trung Quốc không muốn bị bắt nạt. Zhao nói ông rất lo lắng “vì Trung Quốc chưa có khả năng xem xét các vấn đề từ quan điểm của người khác”.
Các học giả quan hệ quốc tế gọi hình thức hiểu lầm nguy hiểm nhất là thế “lưỡng nan an ninh”. Nó có thể phát sinh khi một quốc gia thực hiện các hành động phòng thủ nhưng bị nước khác hiểu nhầm là một hành động gây hấn, khiến cho tất cả các bên đều cảm giác bất an. Hiện tại Mỹ và Trung Quốc có nguy cơ gặp phải thế lưỡng nan an ninh như vậy, đặc biệt là trong các lĩnh vực cạnh tranh mới.
Nếu các chiến lược gia dành thời gian đếm các tên lửa chống hạm và nghiên cứu các đơn vị chiến đấu trên biển mới của Trung Quốc, thì họ cũng dành nhiều thời gian để suy nghĩ về các tài sản và vũ khí không thể nhìn thấy và không có quy tắc chiến tranh nào điều chỉnh, từ vũ khí mạng đến các chuỗi cung ứng bị mất an ninh. Không nơi nào xác thực điều đó hơn trong lĩnh vực chiến tranh mạng, một lĩnh vực còn thiếu minh bạch đến nỗi Trung Quốc và Mỹ thậm chí còn không đồng ý về các định nghĩa cơ bản, đâu là những hành vi không thể chấp nhận được. Một số nghe có vẻ gợi nhớ tới các học thuyết khắc nghiệt nhưng quen thuộc trong cuộc đối đầu hạt nhân Đông-Tây trong cuộc Chiến tranh Lạnh thế kỷ 20.
Suy nghĩ về những điều không tưởng
Bên cạnh các tiêu đề báo chí hàng ngày về chiến tranh thương mại và mâu thuẫn thuế quan, các nỗ lực kín đáo vẫn đang được tiến hành để xác định Mỹ và Trung Quốc có thể đồng ý về một số quy chuẩn và nguyên tắc cơ bản nhằm tránh các cuộc đụng độ hoặc tính toán sai trong lĩnh vực không gian mạng hay không. Những nỗ lực này rõ ràng lấy các cuộc đàm phán vũ khí hạt nhân trong lịch sử làm mô hình, làm sống lại những cụm từ Chiến tranh Lạnh đã bị lãng quên phần nào như “các biện pháp xây dựng lòng tin” và cam kết “không sử dụng đầu tiên”.
Các viện nghiên cứu Mỹ và Trung Quốc đã âm thầm tổ chức các cuộc hội thảo để nói về những hành động thảm khốc đến mức cả hai nước có thể sẵn sàng từ bỏ chúng. Viện Carnegie Endowment, có trụ sở tại Washington, DC, đã đề xuất lệnh cấm các cuộc tấn công chống lại các hệ thống chỉ huy và kiểm soát các lực lượng hạt nhân, và “hết sức kiềm chế” việc làm suy yếu niềm tin vào các luồng dữ liệu tài chính quan trọng đối với sự ổn định toàn cầu. Một nhóm các chuyên gia chính phủ do Liên Hợp Quốc triệu tập đã đề xuất một tiêu chuẩn chống lại việc tấn công vào các cơ sở hạ tầng quan trọng, như đập thủy lợi hoặc lưới điện. Các công ty công nghệ lớn và các lãnh đạo doanh nghiệp đã bắt đầu tranh luận về danh sách các hành động có thể bị cấm tương tự như sử dụng khí mù tạc hoặc phát tán bệnh than trong thế giới thực, như thử nghiệm vũ khí mạng trong các mạng máy tính kết nối với thế giới bên ngoài.
Niềm tin đã chứng minh là một trở ngại đối với việc thiết lập các hiệp ước kiểu Chiến tranh Lạnh để loại bỏ những công cụ như vậy. Không giống như đầu đạn hạt nhân, vũ khí không gian mạng không thể đếm được, và sự tiêu hủy của chúng không bao giờ có thể xác minh được. Đến nay, các chuyên gia và quan chức Trung Quốc đã tỏ ra miễn cưỡng khi nói về cách các “chiến binh mạng” của Trung Quốc hoạt động ra sao. Mỹ không đồng ý với Trung Quốc về những hình thức gián điệp mạng nào, mặc dù gây khó chịu cho các đối thủ, là thứ có thể chấp nhận được. Nước Mỹ xác định đó là những hoạt động gián điệp của chính phủ nhằm đánh cắp bí mật thương mại và trao chúng cho các công ty được nhà nước ưu tiên. Trung Quốc hứa sẽ ngăn chặn các hoạt động gián điệp như vậy trong một thỏa thuận năm 2015 giữa Chủ tịch Tập Cận Bình và Tổng thống Barack Obama, nhưng các quan chức Mỹ khẳng định rằng cam kết đó đã bị phá vỡ, và Trung Quốc đã cố gắng hơn để không bị bắt quả tang bằng cách đưa các hoạt động sang cho Bộ An ninh Quốc gia quản lý.
Vận hành một thế giới mới ngay nay với các cuộc tấn công biết được lẫn khó biết có thể yêu cầu cả hai bên phải đưa ra những nhượng bộ đau đớn. Vào tháng 10 năm 2018, một đại tá đã nghỉ hưu của Giải phóng Quân Nhân dân (PLA), Liu Jinghua, và một cựu quan chức năng lượng nguyên tử của Israel, Ariel Levite, đã công bố đề xuất về một thỏa thuận lớn về không gian mạng trong tạp chí Khoa học quân sự Trung Quốc, một tạp chí học thuật của PLA. Bài viết gợi ý rằng Mỹ nên công nhận quyền của Trung Quốc trong việc giám sát và kiểm duyệt mạng internet của chính họ một cách gắt gao, ngừng cho rằng internet nên là nơi tồn tại tự do ngôn luận, tự do khám phá trên toàn thế giới. Đổi lại, bài viết cũng đề xuất rằng cảnh sát mạng Trung Quốc sẽ sử dụng sức mạnh ghê gớm của họ để ngăn chặn và trừng phạt các cuộc tấn công mạng được phát động từ lãnh thổ Trung Quốc.
Những đề xuất như vậy không có sự kịch tính như phản ứng của Mỹ trước cú sốc Sputnik, một cuộc chạy đua không gian đưa con người lên mặt trăng và thúc đẩy các phát minh quan trọng đối với cuộc sống hiện đại. Nhưng cuộc đối đầu Trung – Mỹ phải được quản lý. Có thể cho rằng nó đã lên tới hình thức một cuộc chiến tranh mạng không được công bố. Cả hai bên có những lợi ích lớn có thể được liệt kê ra và so sánh. Có thể một ngày nào đó, những danh sách đó sẽ trở thành một hiệp ước, làm cho thế giới trở nên an toàn hơn. Nhưng than ôi, ngày đó vẫn còn xa.