BÀ HUYỆN THANH QUAN – NỮ THI SĨ HỌC SÂU HIỂU RỘNG

Bà Huyện Thanh Quan (chữ Nôm: 婆縣青關; 1805 – 1848), tên thật là Nguyễn Thị Hinh (阮氏馨); là một nữ sĩ trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam. Bà sinh ra ở làng hoa Nghi Tàm bên bờ Hồ Tây (nay là phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội). Bà là người hay thơ, giỏi chữ Nôm. Đời vua Minh Mạng, bà được vời vào cung trao cho chức Cung trung giáo tập, dạy dỗ cho các cung phi và công chúa. Điều này xác nhận với chúng ta rằng bà Huyện Thanh Quan là một phụ nữ có đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh” theo đúng chuẩn mực xưa, nên đã được triều đình biết tiếng, được một vị vua anh minh vời vào cung và giao cho trọng trách này. Bà cũng là một trong số hiếm những người phụ nữ được vua mời vào cung làm quan.

Chồng bà là Lưu Nguyên Ôn, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông, đỗ Cử nhân năm 1828, từng làm Tri huyện Thanh Quan sau bị giáng chức, rồi lại được bổ chức Bát phẩm Thư lại bộ Hình trong kinh đô Huế. Ông huyện Thanh Quan chẳng may mất sớm, khi mới 43 tuổi. Sau khi chồng mất, bà về quê ở vậy, một mình nuôi con.

Nhắc đến Bà huyện không ai không nhớ đến chuyện bà lên công đường thay chồng xử án bằng thơ Nôm. Chuyện xảy ra lúc chồng bà đi vắng, bà nhận được đơn của một thiếu phụ trong huyện xin được đi lấy chồng, xót thương hoàn cảnh của chị ta, bà đã phê vào tờ đơn bằng mấy câu thơ:

Phó cho con Nguyễn Thị Đào

Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai

Chữ rằng “xuân bất tái lai”

Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già!

Câu chuyện này được lan rộng trong xã hội và trở thành một giai thoại văn học rất đẹp. Bà Huyện  có lòng thấu hiểu và cái nhìn vượt bậc về tình nghĩa vợ chồng, cùng là phận ‘nữ nhi thường tình’ nên bà biết thương cái xuân thì của người thiếu phụ, mong muốn tìm được sự công bằng cho phụ nữ trong xã hội phong kiến loạn lạc. Không biết cô Nguyễn Thị Đào sau khi có cuộc sống mới có tới thăm bà không? Câu chuyện cũng gợi cho đời sau tưởng tượng ra cảnh nhà Bà huyện đầm ấm vui vẻ, vợ chồng cùng thưởng trà dưới nguyệt hay ngâm vịnh xem hoa vô cùng tao nhã và tâm đắc.

Bà còn mượn thơ nói lên tấm lòng của bản thân từ con đường lưu dấu người nữ sĩ tài hoa khi đi từ Thăng Long vào kinh thành Huế. Khi đi qua Đèo Ngang dáng hình người phụ nữ lồng lộng và đơn côi trên đỉnh đèo trong một hoàng hôn lữ thứ đã ngâm bài thơ:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá lá chen hoa

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Dừng chân đứng lại trời – non – nước

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Bà có một cuộc đời ‘trầm lặng’ hơn so với tài năng. Bà chỉ để lại cho đời ngót chừng chục bài thơ Nôm theo thể Hàn luật mà nổi bật nhất là Thăng Long Thành hoài cổ, Qua đèo Ngang, Chiều hôm nhớ nhà. Vậy mà vẻ cao sang đài các, kiêu sa từ từng con chữ trong những bài thơ, mỗi bài đều 56 chữ ấy đã lan tỏa khắp thi đàn nước Việt trải đã mấy trăm năm.

Cuộc đời bà Huyện Thanh Quan gắn liền với những thăng trầm của đất nước, cũng chính về thế tâm trạng và hồn thơ của bà mang đậm màu sắc thương nước thương dân, hoài niệm về quá khứ vàng son. Thơ bà như lời tự sự mượn cảnh nói tình, vừa gần gũi vừa mênh mang, và có cả nỗi buồn của sự cô đơn. Ấy thế nhưng, những câu chuyện về bà lại được biết đến qua các giai thoại, các điển tích, mà ở đó người ta thấy rõ nét một nữ sĩ đa sầu đa cảm, giàu lòng trắc ẩn, tài đức vẹn toàn. Và dù ở áng thơ nào hay ở bất cứ giai thoại nào bà cũng thể hiện sự trang nhã, tinh tế và thanh tao, cốt cách của người Tràng An.

Có thi sĩ đã từng viết về một loài hoa có những “bông hoa nhỏ giấu mình trong cỏ; thơm hết mình mà chẳng thấy hoa đâu”. Phải chăng bông hoa ấy là bà Huyện Thanh Quan hương thơm ngát thi đàn nước Việt mà lai lịch hành trạng thì còn đang đánh đố hậu thế. Ai có dịp qua Đèo Ngang, hãy ngước nhìn đỉnh đèo non nước trời mây bao la, trên đó là một tượng đài bà Huyện Thanh Quan lồng lộng ở mãi với thời gian…

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *