Từ Kỳ đài nhìn về phía nam có ba công trình kiến trúc tô điểm cho bộ mặt của Kinh thành Huế, là Phu Văn lâu, Nghinh Lương đình và đàn Nam Giao.
1/Phu Văn lâu, một kiến trúc hai tầng mái với 16 cây cột, xung quanh không có vách, tạo nét thanh tú và độc đáo, được xây dựng vào năm thi 1819 dưới thời vua Gia Long, dùng làm nơi niêm yết những chỉ dụ quan trọng của nhà vua và triều đình, hoặc kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức. Thời Minh Mạng, nhà vua quy định sau khi các chiếu thư được tuyên đọc ở Ngọ Môn hoặc điện Thái Hoà sẽ được đặt trên long đình, có che lọng và quân lính theo hầu hai bên để đưa ra niêm yết tại Phu Văn lâu. Các quan hàng tỉnh và hương lão phải đến quỳ lạy trước chiếu thư. Vì tính cách long trọng như vậy nên hai bên lầu có hai bia đá “khuynh cái hạ mã” nhắc nhở tất cả mọi người đi ngang qua Phu Văn lâu phải “nghiêng nón xuống ngựa” để tỏ lòng kính cẩn.
2/Nghinh Lương đình được xây dựng dưới triều vua Tự Đức, có kết cấu kiến trúc kiểu phương đình một gian bốn chái, phía trước và phía sau đều có nhà vỏ cua nối dài ra. Bộ khung gỗ ở phần trên, nhất là các vì vỏ cua cùng hệ thống liên ba được chạm trổ công phu. Mái nhà chính lợp ngói ống lưu ly vàng, hai nhà vỏ cua lợp ngói liệt men vàng. Nền Nghênh Lương tạ cao 90 cm, bó vỉa bằng gạch vồ và đá thanh, phía bờ sông có 13 bậc cấp dẫn xuống một hành lang xây sát mặt nước sông Hương. Cảnh quan xung quanh nhà tạ rất trữ tình và nên thơ. Năm 1916, Trần Cao Vân và Thái Phiên đã giả vờ ngồi câu cá ở bến Phu Văn lâu để bí mật gặp vua Duy Tân bàn việc khởi nghĩa. Chẳng may việc bất thành, vua Duy Tân bị quân Pháp bắt và đày ra đảo Réunion. Tương truyền mấy câu ca dưới đây có ý nhắc đến việc này:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu,
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Nghe câu mái đẩy, chạnh lòng nước non!
3/Đàn Nam Giao của triều Nguyễn, ở hướng nam Kinh Thành Huế, là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ Nam Giao tế trời đất vào mùa xuân hàng năm. Lễ tế Nam Giao là nghi lễ quan trọng bậc nhất dưới chế độ quân chủ vì chỉ nhà vua mới có quyền làm lễ tế Giao, tức là tế Trời Đất, nhằm khẳng định tính chính thống của triều đại, uy quyền của Hoàng đế tuân theo mệnh trời mà cai trị dân chúng. Đàn Nam Giao ở Huế là đàn tế trời đất theo văn hóa truyền thống duy nhất còn hiện hữu (dù trong tình trạng không còn nguyên vẹn) ở Việt Nam.
Đàn Nam Giao đã được nhà Nguyễn khởi công xây dựng vào ngày 25 tháng 3 năm 1806. Sau khi hoàn thành, vua Gia Long lần đầu tiên tổ chức lễ tế Giao tại đây vào ngày 27 tháng 3 năm 1807. Đàn Nam Giao triều Nguyễn là một tổ hợp các công trình kiến trúc gồm Giao đàn, Trai cung, Thần trù và Thần khố trong khuôn viên hình chữ nhật có diện tích đến 10ha. Trung tâm của khuôn viên đàn Nam Giao là Giao đàn, hướng về phía nam, gồm 3 tầng: tầng trên cùng là Viên đàn, xây thành hình tròn, tượng trưng cho Trời; hai tầng dưới là Phương đàn, xây thành hình vuông, tượng trưng cho Đất. Đây là nơi diễn ra các hoạt động lễ nghi chính trong lễ tế Nam Giao, được học giả Léopold Michel Cadière miêu tả rất kĩ lưỡng trong ‘Bulletin des amis du vieux Huế’.
Chuyện bắt đầu…
Năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở Chiến dịch Mùa Xuân 1975, tổng tiến công Việt Nam Cộng hòa. Với sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh Việt Nam kết thúc sau 21 năm ác liệt kéo dài. Thế nhưng, việc khắc phục hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh đối với quần thể các di tích Cố đô Huế không được chính quyền mới quan tâm đến, do nhiều định kiến về chính trị đương thời.
Năm 1975, một đài tưởng niệm liệt sĩ bằng tôn và gỗ, cao chừng 3,5m, được dựng lên ở khoảng sân nằm giữa Phu Văn lâu và Nghinh Lương đình, và có lẽ đã gây nhiều phản cảm. Chính xác là rất nhiều phản cảm, vì vào năm 1977, một vụ nổ bộc phá đầy bí ẩn đã thổi bay công trình đó đi. Ngay trong đêm xảy ra vụ việc, lực lượng an ninh Việt Nam đã đến ngay để dọn dẹp hiện trường, dựng lại đài tưởng niệm như cũ.
Nhưng đầu tháng 11 năm 1977, Tỉnh ủy tỉnh Bình Trị Thiên yêu cầu xây dựng đài tưởng niệm mới ở vị trí khác vì cho rằng địa điểm trước Phu Văn Lâu không đảm bảo an toàn cho Bí thư Tỉnh ủy lúc ấy là Bùi San đến đặt vòng hoa vào ngày 22 tháng 12 là ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam. Một cuộc họp “khẩn” với đại diện các cơ quan công quyền của tỉnh này đã diễn ra ở trụ sở Ty Thương binh và Xã hội. Nhiều địa điểm ở Huế được đề xuất nhưng cuối cùng, địa điểm được chọn lại là đàn Nam Giao triều Nguyễn. Công trình được quyết định xây ngay chính giữa nền Viên đàn, là nơi chỉ có Nam Đế, được mỗi năm một lần lên tế đất trời xứ Nam.
Công trình được làm bằng gạch ốp đá rửa, cao chừng 10m, do kiến trúc sư Nguyễn Quý Quyền thiết kế, phó Ty Xây dựng tỉnh Bình Trị Thiên Nguyễn Văn Đoái đôn đốc thi công. Ngày 22 tháng 12 năm 1977, khối “tân cổ cưỡng duyên” được khánh thành với sự hiện diện của Bí thư Tỉnh ủy Bùi San. Trong thời gian đó, thủ trưởng ngành Văn hóa tỉnh Bình Trị Thiên, người có trách nhiệm quản lý các di tích lịch sử – văn hóa trong tỉnh này, Ty trưởng Ty Văn hóa, nhạc sĩ Trần Hoàn lại không hề có hành động nào ngăn chặn vụ việc phá đàn Nam Giao tai tiếng vì ông đang công tác ở Liên Xô. Không chỉ nền Viên đàn mà khu vực Trai cung cũng bị biến dạng khi trở thành nơi đặt máy xay xát của công ty Lương thực thành phố Huế, nền nhà Khoản tiếp biến ra trụ sở Ủy ban nhân dân xã Thủy Xuân. Dư luận Huế bày tỏ bất bình bằng câu ca dao mà nhiều năm sau còn được truyền tụng:
Trần Hoàn cùng với Bùi San
Hai thằng hợp tác phá đàn Nam Giao.
Tuy vậy, phải 15 năm sau, nhận thấy việc tùy tiến cải biến công trình đàn Nam Giao là sai lầm trầm trọng, ngày 15 tháng 9 năm 1992, chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định di dời đài tưởng niệm liệt sĩ đến địa điểm khác, trả lại nguyên dạng đàn Nam Giao. Tỉnh Thừa Thiên Huế cũng giao Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế nhiệm vụ bảo vệ, lập hồ sơ, luận chứng kỹ thuật phục vụ công tác trùng tu. Song sau đó, việc trùng tu vẫn chưa được diễn ra, và đàn Nam Giao có khi được dùng làm bãi tập lái ô tô, lúc lại biến thành thao trường của quân đội Việt Nam.
Ngày 11 tháng 12 năm 1993, đàn Nam Giao nằm trong danh sách 16 di tích có giá trị toàn cầu nổi bật thuộc quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới. Còn Phu Văn lâu, như mọi người đều biết, khá khẩm hơn đàn Nam Giao một chút nữa, hình ảnh của nó được in trên mặt sau của tờ tiền 50.000 đồng phát hành từ năm 2003.
Tham khảo:
-Wikipedia tiếng Việt
-Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt – Léopold Michel Cadière
-Hồn sử Việt, những giai thoại và truyền thuyết nổi tiếng – Minh Châu
Nguồn: Lạc Vũ Thái Bình
