Avril Lavigne có còn trên đỉnh cao sự nghiệp không?
—-
Trả lời ngắn gọn: rất tiếc tôi phải nói, đó là KHÔNG.
—-
Avril Lavigne sinh năm 1984 tại Canada. Khả năng âm nhạc của cô được phát hiện từ nhỏ, qua những lần mẹ cô bé đưa đi hát ở nhà thờ. Cha mẹ cô ủng hộ việc ca hát, chắp cánh ước mơ cho cô, mua trống, guitar, thậm chí biến cả tầng hầm của căn nhà thành studio cho em.
Với một vài thành tích trong các cuộc thi ca hát địa phương, cô được ca sĩ – nhạc sĩ người Canada Stephen Medd mời góp giọng cho một vài bài hát của ông: ‘Touch the Sky’, ‘Two Rivers’ và ‘Temple of Life’, là những bài hát mang âm hưởng country, folk, rất phù hợp với giọng hát của cô bé Avril Lavigne 15 tuổi. Thời điểm này em cũng bắt đầu viết những ca khúc của chính mình, một số trong đó xuất hiện trong album B-Sides và album ra mắt Let Go. Nhạc Avril giai đoạn này có giai điệu và ca từ đơn giản, giọng hát chưa trưởng thành, tuy nhiên cũng đã dần hình thành phong cách cho riêng mình.
Sau đó, tài năng của cô được Cliff Fabri phát hiện và mang cô đến môi trường phòng thu chuyên nghiệp. Buổi thử giọng kéo dài 15 phút của cô gây ấn tượng với L.A. Reid, ông ngay lập tức ký hợp đồng với Avril. Bản hợp đồng với Arista Records trị giá 1.25 triệu đô la cho 2 album và 900 nghìn đô dành cho việc phát hành.
Avril làm việc chăm chỉ trong những năm 1999 – 2002. Cô viết rất nhiều bài hát trong giai đoạn này, một số trong chúng được gom lại vào album B-Sides, là một album prebebut với nhiều trong số đó chỉ là demo. Nhiều bài trong B-Sides sau này được hoàn thiện và phát hành chính thức trong các album và single của chị.
Avril-17-tuổi viết nhạc đã cứng tay hơn rất nhiều. Phong cách của cô giai đoạn này rất rõ rệt: alternative rock, soft rock, pop rock, hơi giống với Alanis Morrisette hay Sarah McLachlan. Giọng hát có vẻ vẫn chưa trưởng thành, giống với một mezzo-soprano hơn.
Một số bài rất hay trong B-Sides, điển hình cho phong cách của chị giai đoạn này:
· Falling Down
· Tomorrow You Didn’t
· Once and for Real
· Headset
Có thể nghe album B-Sides ở đây (unofficial): https://youtu.be/hvLF6cefGG8
—-
Cuối cùng album debut cũng hoàn thiện. Let Go được phát hành vào ngày 04/06/2002, dưới nhãn đĩa Arista Records, đánh dấu màn ra mắt chính thức của Avril Lavigne.
Giai đoạn này Avril gặp đôi chút khó khăn vì cá tính âm nhạc của mình có nhiều điểm không phù hợp với định hướng âm nhạc của Arista. Vì vậy chị phải cộng tác với nhiều nhà sản xuất khác nhau, nổi bật là The Matrix. Họ là những người hiểu Avril nhất trong giai đoạn này, từ đó những tuyệt phẩm như ‘Complicated’, ‘Sk8er Boi’, ‘I’m with You’, ‘Things I’ll never say’, ‘Anything but Ordinary’… ra đời.
Album được đánh giá là một trong những album debut thành công nhất 2002 và nhận được nhiều phản hồi tích cực. Let Go nhận được nhiều chứng nhận Bạch Kim và Kim Cương ở Mỹ, Canada và Anh. Tính đến năm 2011, Let Go bán được 16 triệu bản vật lý, trở thành album bán chạy nhất của chị.
Bốn single được tách ra từ Let Go là Complicated, Sk8erboi, I’m with You và Losing Grip, bao gồm những bài nổi bật nhất từ Let Go, cùng với đó bổ sung một vài bài từ B-Sides.
Hình ảnh của Avril trong Let Go gây ấn tượng sâu đậm: một cô nàng ngổ ngáo, tóc vàng hoe rối tung, tô mắt mèo, mặc croptop với quần baggy thùng thình, với chiếc cà vạt và cây guitar, đi giày Chuck Taylor All-Stars cao cổ. Âm nhạc của cô hoàn toàn mang hơi hướm alternative rock, pop rock đơn giản, bụi bặm, ca từ và giai điệu dễ nhớ, cùng với giọng hát dày và đầy nội lực.
Let Go là một album định hình cá tính âm nhạc của Avril, tạo sự ấn tượng mạnh mẽ với công chúng và giới phê bình âm nhạc.
—-
Tiếp nối thành công của Let Go, năm 2004, Avril phát hành album phòng thu thứ hai mang tên Under My Skin. Avril đồng sáng tác với Chantal Kreviazuk trong phần lớn các ca khúc thuộc album này. Ngoài ra còn có sự đóng góp của Evan Taubenfeld, thắt chặt thêm tình friendzone lâu dài giữa hai anh chị.
So với Let Go vui tươi và hồn nhiên, Under My Skin là một album alternative rock mang hơi hướm post-grunge gai góc, nặng nề, tăm tối và u ám hơn. Không hiểu Avril gặp chuyện gì trong giai đoạn này mà các sáng tác của cô có ca từ rất nặng nề, giai điệu day dứt và ám ảnh. Giọng hát đã trưởng thành hơn, vẫn dày và đầy nội lực.
Avril cũng thử sức với thể loại pop punk nhí nhố với ‘He Wasn’t’ và ‘I Always Get What I Want’. Hai track này lạc quẻ hoàn toàn so với cả album, mang lại chút vui tươi hiếm hoi cho Under My Skin (sau này có thêm ‘Take It’ trong single ‘My Happy Ending’).
Các single được tách ra từ Under My Skin bao gồm: Don’t Tell Me, My Happy Ending, Nobody’s Home, He Wasn’t, đều là những ca khúc nổi bật nhất trong album.
—-
Vào năm 2006, Avril phát hành single ‘Keep Holding On’, bài hát nhạc phim cho film Eragon của 20thCentury Fox. Ca khúc sau này được gộp vào album The Best Damn Thing.
Avril ký hợp đồng với nhãn đĩa mới: RCA Records, nhiều người gọi là Sony Music (bởi RCA là một nhãn đĩa con của Sony). Năm 2007, chị phát hành album The Best Damn Thing.
Đây là một album pop punk nhí nhố và nhắng nhít nhất của chị, trái lại hẳn với Under My Skin, có lẽ là kết quả của đám cưới với anh chàng Deryck Whibbley của band nhạc pop punk Sum 41. Thậm chí các thuyết âm mưu cho rằng Avril cũ đã chết, đây là Melissa cài vào, cũng vì lý do phong cách của chị thay đổi đi quá nhiều.
Album tuy không bán được nhiều như Let Go nhưng lại oanh tạc khắp các bảng xếp hạng. Single nổi tiếng nhất của Avril, ‘Girlfriend’ (nhiều người bây giờ nghĩ về chị là nghĩ ngay về ‘Girlfriend’) ngồi chễm chệ số 1 trên Billboard Hot 100, đồng thời cũng là MV có nhiều view nhất trên Youtube (thời ấy 100 triệu view là quá kinh khủng rồi, đủ để đứng số 1 trong vòng vài năm).
Hey hey, you you, tao không thích con ghệ mày
No way, no way, kiếm người yêu mới đê
Hey hey, you you, làm người yêu em nhó
Một số bài pop punk làm nên hình ảnh mới của cô: Girlfriend, I Can Do Better, Runaway, The Best Damn Thing, Hot, Everything Back but You, I Don’t Have to Try, One of Those Girls, Contagious, Alone.
The Best Damn Thing được đánh giá là mang tính thương mại cao hơn. Một Avril mới màu hường, nhắng nhít; giọng hát rất khác: mảnh hơn, mềm hơn, the thé hơn.
Bên cạnh pop punk rực rỡ, Avril cũng có một số bài hát pop rock nhẹ nhàng hơn mang âm hưởng ballad: When You’re Gone, Innocence, I Will Be.
Như vậy một Avril Lavigne phong trần đã biến mất hoàn toàn, thay vào đó là một Avril ngổ ngáo, nhắng nhít và phần nào ẩn sâu trong đó một chút sâu lắng suy tư. Đây có lẽ cũng là album cuối cùng Avril thành công về mặt doanh thu, độ phủ sóng, hình ảnh và phong cách âm nhạc. Giai đoạn tiếp theo sau này của chị trầm lắng hơn, dần sang phía bên kia sự nghiệp.
—-
Vào năm 2011, Avril phát hành album phòng thu thứ 4: Goodbye Lullaby, bao gồm cả track ‘Alice‘ đã phát hành trước đó (nhạc phim Alice in Wonderland).
Đây là một album trầm lặng, là dấu lặng trong bản nhạc sự nghiệp âm nhạc sôi động của Avril. Phần lớn các bài hát đều theo phong cách acoustic với tiếng guitar hoặc piano đệm nhẹ nhàng phía sau. Goodbye Lullaby đánh dấu sự hợp tác cuối cùng với “anh bạn” Evan Taubenfield, cũng như người chồng cũ đầu tiên, Deryck Whibbley. Anh bạn Evan cũng có một single feat với Avril, ‘Best Years of Our Lives’, tổng kết gần chục năm nằm trong friendzone của chị.
Album mang tính tự sự cá nhân của Avril, với những ca từ buồn, giai điệu nhẹ nhàng du dương, có thể là kết quả từ sự chia tay với người chồng đầu tiên vào năm 2010. Giọng hát Avril có sự tiến bộ đáng kể, đạt độ chín trong quãng đời ca hát của chị.
Trái với âm hưởng của cả album, Avril chọn tách ‘What the Hell’, ‘Smile’ và ‘Wish You Were Here’ thành các single, có lẽ để giữ hình tượng và cũng vì các bài hát còn lại khó có thể quảng bá tốt được. Âm nhạc của chị hướng sang hẳn một hướng mới, không còn rock nhiều nữa, thay vào đó, pop ballad nhiều hơn.
—-
Album thứ năm của Avril Lavigne mang chính tên chị, phát hành cuối năm 2013. Avril theo dòng nhạc pop hiện đại hơn, một số mang hơi hướm điện tử, phảng phất một chút chất rock còn sót lại. Album cũng đánh dấu sự hợp tác đầu tiên với anh chồng mới là vua bị troll Chad Kroeger. Avril Lavigne không được đánh giá cao, thậm chí còn bị chỉ trích khá nhiều trong ‘Hello Kitty’ và ‘Here’s to Never Growing Up’, cho thấy sự loay hoay, lúng túng trong sự nghiệp của chị bấy giờ. Nếu như Goodbye Lullaby còn có thể đổ lỗi cho nhạc buồn kén người nghe và khó quảng bá, thì trớ trêu thay, album duy nhất mang tên chị lại là nốt trầm trong sự nghiệp của Avril.
Các single được tách ra từ Avril Lavigne: ‘Here’s to Never Growing Up’, ‘Rock n Roll’, ‘Let Me Go’, ‘Hello Kitty’, ‘Give You What You Like’.
—-
Giai đoạn 2013 – 2018 Avril rất im hơi lặng tiếng. Chỉ có một vài single lẻ tẻ như Give You What You Like, Fly, hoặc feat với Nick Carter, One Ok Rock, Jonny Blu… Nhiều người cho rằng Avril đã hết thời từ đây, cho rằng sự nghiệp của cô bế tắc hoàn toàn, loay hoay giữa việc thu hút fan mới và tri ân fan cứng. Thậm chí nhiều người cho rằng cô đã chết. Thuyết âm mưu về Melissa lại càng được thể lan truyền.
Nhưng thực tế không phải vậy. Tháng tư năm 2015, cô cho biết mình mắc phải căn bệnh Lyme khiến sức khoẻ bị giảm sút. Avril phải chiến đấu với bệnh tật và sau đó là hồi phục sức khoẻ, đó là lý do khiến cô vắng mặt trong suốt thời gian dài.
Năm 2018, Avril trở lại với single ‘Head Above Water’, mở màn cho full album thứ sáu cùng tên vào đầu năm 2019. Album là lời tâm sự của cô qua những năm tháng chiến đấu với bệnh tật, những suy tư của một phụ nữ trưởng thành về tình yêu, cuộc sống.
Âm nhạc của Avril trong album này khả quan hơn. Cô có tái cộng tác với Lauren Christy (trước đây thuộc The Matrix) với ca khúc ‘It Was in Me’, ca khúc mà Avril gọi là “I’m with You version 2”.
Album mang phong cách pop rock, pop, thứ mà Avril nói rằng “mang đậm tính cá nhân, gần gũi, kịch tính, mạnh mẽ, đầy cảm xúc và nội lực”. Avril cũng thử sức với thể loại soul với ‘Tell Me It’s Over’ và ‘Crush’. Ca khúc ‘Dumb Blonde’ mang phong cách pop punk giữ hình tượng, tuy feat với Nicky Minaj nhưng cũng không được đánh giá cao.
Giọng hát của Avril cho thấy sự xuống dốc sau thời kỳ mắc bệnh và trở lại lần này. Head Above Water cũng không đạt được thành công về mặt thương mại, cho dù Avril đã ký hợp đồng với nhãn đĩa mới là BMG.
Tháng 4, 2020, Avril Lavigne thu âm lại ca khúc ‘Warrior’, phát hành single tên ‘We Are Warriors’ nhằm cổ vũ tinh thần các y bác sĩ chiến đấu trên tiền tuyến chống lại đại dịch COVID-19.
Sau đó, Avril hé lộ khả năng phát hành âm nhạc mới vào năm 2021, và cô đang thử sức với những chất liệu âm nhạc mới, đó sẽ là phong cách chủ đạo của album tiếp theo. Với những track được leak ra từ Head Above Water như ‘Bright’, ‘I Want What I Want’, ‘Don’t Stop’…, mình mạn phép dự đoná phong cách đó là pop EDM.
Avril Lavigne cuối cùng cũng tìm được đường đi tiếp cho mình: gắn bó với lượng fan trung thành thay vì cố gắng thu hút thế hệ fan mới, một điều rất khó cạnh tranh với các nghệ sĩ trẻ tài năng cùng phong cách âm nhạc hiện đại.
—-
Bên cạnh những ca khúc nổi tiếng được phát hành chính thức, Avril có một cơ số các bạn hát chưa được phát hành, là những ca khúc bị rò rỉ, demo, hoặc được viết cho các nghệ sĩ khác.
Là một nghệ sĩ chịu ảnh hưởng của rock, sự nghiệp âm nhạc của Avril được chia thành các giai đoạn rõ rệt. Từng album mang phong cách nhất định, có phần tương phản nhau. Có lẽ cô gây ấn tượng nhiều nhất qua thời kỳ đầu tiên Let Go – Under My Skin, hoặc một bộ phận fan khác lại yêu mến cô qua The Best Damn Thing.
Âm nhạc của Avril giờ đây mang tính tâm sự cá nhân. Hơn 30 tuổi, qua 2 đời chồng, 1 lần bệnh nặng, giờ là lúc chúng ta ngồi xuống với nhau để nghe Avril kể chuyện đời mình. Không còn tung hoành trên các bảng xếp hạng, không còn bán được nhiều album, không còn được đề cử giải thưởng, không xuất hiện nhiều trên báo chí truyền hình nhưng không đồng nghĩa sự nghiệp ca hát của cô kết thúc.
Hiển nhiên Avril không còn trên đỉnh cao sự nghiệp nữa, kể từ sau The Best Damn Thing, nhưng, vậy thì sao nhỉ?
Vẫn còn những tâm hồn luôn dõi theo cô, hoà vào từng giai điệu. Ước gì một lần Avril đến Việt Nam.