Bạch Khởi – Chiến tướng đệ nhất thời Chiến Quốc
Tương truyền, vào cuối thời nhà Đường, tại vùng Sơn Tây, Trung Quốc, đã xảy ra một hiện tượng kỳ lạ. Trong một cơn mưa lớn, có một con trâu lớn đã bị sét đánh chết. Khi đến xem xét, người ta nhìn thấy hai chữ “Bạch Khởi”. Dân gian truyền nhau rằng, vì sinh thời Bạch Khởi giết quá nhiều người nên hơn một ngàn năm sau khi chết ông vẫn còn phải chịu quả báo, phải làm kiếp súc sinh bị sét đánh chết.
—-
Bạch Khởi sinh năm 332 TCN, mất năm 257 TCN, tước “Vũ An Quân”, là tổng chỉ huy quân đội nước Tần thời Chiến Quốc. Ông được xem là một trong những nhà cầm quân tài ba nhất lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng với việc dùng binh không theo binh pháp. Những thắng lợi quân sự của Bạch Khởi đã đặt nền tảng cho việc thống nhất Trung Nguyên, công cuộc được hoàn tất vào thời Tần Thuỷ Hoàng. Do Bạch Khởi giết quá nhiều người nên người đương thời gọi là “Nhân đồ”.
Xuất thân
Liên quan tới thân thế của Bạch Khởi, sách Tân Đường thư, quyển bảy mươi lăm hạ, “Tể tướng thế hệ biểu” chép rằng ông là hậu duệ của danh tướng Bạch Ất Bính của Tần Mục Công thời Xuân Thu. Bạch Ất Bính vốn tên thật là Kiển Bính, con cháu của ông lấy Bạch Ất làm họ, sau giản lược thành họ Bạch. Một trong những hậu duệ nhiều đời của ông chính là Bạch Khởi. Tuy nhiên, theo lời tự thuật của thi nhân sống vào thời nhà Đường là Bạch Cư Dị trong tác phẩm Cố Củng Huyện lệnh Bạch phủ quân sự trạng của mình thì có ghi chép tổ tiên Bạch Khởi là Công tử nước Sở Bạch công Thắng, cháu nội của Sở Bình Vương. Bạch công Thắng mưu phản buộc phải tự sát, con của ông buộc phải trốn sang nước Tần. Kể từ đó, hậu duệ đều làm tướng nước Tần và Bạch Khởi là một trong số đó.
Thắng lợi tại Y Khuyết
Bạch Khởi sở hữu một khuôn mặt nhọn, đôi mắt sắc lẹm. Ông hành động quyết đoán, phân tích thấu triệt mọi việc, có ý chí cầu tiến, đồng thời là một người giỏi dùng binh và có mối quan hệ rất tốt với quan tướng quốc mới nhậm chức là Nhương hầu Ngụy Nhiễm. Trước năm 294 TCN, Tần Chiêu Tương Vương bổ nhiệm Bạch Khởi làm tả thứ trưởng, dẫn quân tấn công nước Hàn, chiếm được Tân Thành (nay là Y Xuyên, Hà Nam). Chiến dịch đó đã thể hiện tài năng quân sự vượt trội của ông, được Ngụy Nhiễm rất mến mộ. Vào năm thứ hai, dựa vào sự tiến cử của Ngụy Nhiễm, Bạch Khởi được thăng làm Tả canh, thay thế Hướng Thọ làm chủ tướng. Cùng năm đó, các nước Hàn, Ngụy và triều đình Đông Chu liên minh với nhau, cử Công Tôn Hỉ nước Nguỵ làm chủ soái, dẫn binh tiến đến Y Khuyết (nay là trấn Long Môn, Lạc Dương, Hà Nam), cùng quân Tần giằng co. Trong trận đánh này, về mặt quân số, nước Tần binh lực chưa đến một nửa liên quân Hàn – Nguỵ. Bên phía liên quân, quân Hàn vốn thế đơn lực bạc nên hy vọng quân Ngụy chủ động tiến công, trong khi quân Ngụy thì muốn dựa vào sự tinh nhuệ của quân Hàn nên muốn để quân Hàn xung phong. Chủ tướng quân Tần Bạch Khởi lợi dụng hai nước Hàn, Ngụy muốn bảo lưu thực lực, trốn tránh lẫn nhau, không muốn giao chiến. Trước tiên, ông bày nghi binh kìm chân quân chủ lực nước Hàn, sau đó tập trung binh lực tấn công bất ngờ quân Ngụy. Quân Hàn sau khi thấy quân Ngụy chiến bại cũng tan tác mà chạy. Quân Tần thừa thắng truy kích, dành được thắng lợi lớn. Tại trận Y Khuyết, quân Tần giết tổng cổng 24 vạn người, trong đó có Công Tôn Hỉ, chiếm được Y Khuyết cùng 5 tòa thành trì. Tần mưu đồ tấn công Tây Chu, nhưng bất thành dưới một loạt hoạt động ngoại giao của nước Tây Chu. Sau thắng lợi tuyệt đối trước liên quân Hàn, Ngụy, Bạch Khởi được thăng chức làm Quốc úy. Cùng năm đó, lợi dụng thất bại thảm hại của Hàn, Ngụy tại Y Khuyết, ông dẫn binh vượt sông Hoàng Hà, đoạt được một vùng đất rộng lớn kéo dài từ An Ấp (nay là tây bắc Hạ Huyện, Sơn Tây) đến Càn Hà.
Vào khoảng năm 292 TCN, Bạch Khởi được thăng làm Đại lương tạo, dẫn quân tiến đánh nước Ngụy, chiếm được Ngụy Thành (phía đông Vĩnh Tế, Sơn Tây ngày nay), công hạ Viên Ấp (đông nam Viên Khúc, Sơn Tây ngày nay) nhưng không chiếm. Vào năm 291 TCN, Bạch Khởi tiến đánh nước Hàn, chiếm được Thủ Uyển (nay là Uyển Thành, Nam Dương, Hà Nam), Diệp (nay là Diệp huyện, Hà Nam). Năm 290 TCN, Bạch Khởi cùng Tư Mã Thác hợp binh công đánh Viên Ấp một lần nữa. Năm tiếp đó, ông lại dẫn quân tiến công nước Ngụy, chiếm được hai thành là Bồ Phản (phía bắc Vĩnh Tế, Sơn Tây ngày nay), Bì Thị (Hà Tân, Sơn Tây ngày nay). Năm 282 TCN, Bạch Khởi tiến đánh nước Triệu, chiếm được Tư Thị (phía nam Phần Dương, Sơn Tây ngày nay) cùng Ly Thạch (nay là Ly Thạch, Lữ Lương, Sơn Tây). Cùng năm đó, ông dẫn binh ra Hào Sơn, vây hãm thủ đô nước Ngụy là Đại Lương (nay là Khai Phong, Hà Nam), vua Tây Chu sợ gặp nguy hiểm nên đã phái Tô Lệ dẫn tích Dưỡng Do Cơ để du thuyết Bạch Khởi. Ông vì vậy đã cáo bệnh mà triệt binh. Năm 280 TCN, Bạch Khởi lại một lần nữa tiến đánh nước Triệu, chém được hơn 3 vạn thủ cấp, chiếm Đại huyện (phía đông Úy huyện, Hà Bắc ngày nay) cùng thành Quang Lang (phía tây Cao Bình, Sơn Tây ngày nay).
Tiến vào Dĩnh Đô nước Sở
Chính trị nước Sở dưới thời Khoảnh Tương Vương đã trở nên mục nát, không sửa sang quốc sự, quần thần ghen ghét tranh giành kèn cựa, tìm cách dèm pha nhau để được trọng dụng, trung thần hiền lương không được dùng, khiến nội bộ bách tính trong nước lục đục, lơi lỏng phòng bị, thành trì lâu năm không được tu sửa. Để có thể toàn lực tấn công nước Sở, Bạch Khởi hộ tống Tần Chiêu Tương Vương đến hội kiến Triệu Huệ Văn vương tại Thằng Trì (nay là Thằng Trì, Hà Nam) ký kết hòa ước, hai nước tạm thời bãi binh ngưng chiến, không xâm phạm lẫn nhau. Bạch Khởi sau khi phân tích tình hình hai nước Tần, Sở, đã quyết định áp dụng chiến lược tấn công trực tiếp vào trung tâm quyền lực nước Sở. Năm 279 TCN, quân Tần xuôi theo sông Hán Thủy đông hạ, chiếm được các cứ điểm quan trọng ven sông. Nhằm thể hiện quyết tâm cũng như khích lệ tướng sĩ quyết tử, Bạch Khởi hạ lệnh dỡ cầu, đốt thuyền, cắt đứt đường rút lui, đồng thời tìm kiếm lương thực dọc đường để bổ sung quân lương. Quân Sở vì chiến đấu trên quê nhà, chỉ quan tâm đến gia đình của mình, không có ý chí chiến đấu, nên không có cách nào để ngăn chặn bước tiến vũ bão của quân Tần, liên tục phải chuốc lấy thất bại. Quân Tần di chuyển thần tốc, nhanh chóng chiếm được Đặng thành (nay là Tương Dương, Hồ Bắc), khu vực trọng yếu tại lưu vực sông Hán Thủy, rồi tiến đến thành Yên (đông nam Nghị thành, Hồ Bắc ngày nay), biệt đô của nước Sở. Khoảng cách từ Yên thành đến kinh đô nước Sở Dĩnh Đô (nay là Giang Lăng, Hồ Bắc) là cực kỳ gần. Quân Sở tập trung trọng binh tại đây để ngăn chặn quân Tần xuôi nam. Khi quân Tần mãi không thể tiến lên, Bạch Khởi nhân lúc mùa lũ đã lợi dụng nước sông Man Hà chảy từ Tây Sơn trường cốc ở phía tây thành về hướng đông của thành để mà đắp đê trữ nước. Bạch Khởi sau đó hạ lệnh cho binh sĩ đào một con kênh dài hơn trăm dặm dẫn đến Yên Thành rồi phá mở kênh, dẫn nước vào thành. Góc đông bắc của Yên thành bị ngâm trong nước nên đã sụp đỗ, quân dân trong thành bị chết đuối mấy chục vạn người. Sau khi công phá Đặng thành và Yên thành, Bạch Khởi đã ra lệnh ân xá tội phạm dời đi lưỡng địa, rồi xuất binh công chiếm Tây Lăng (nay là Tân Châu, Vũ Hán).
Năm 278 TCN, Bạch Khởi lại một lần nữa tấn công nước Sở, chiếm được kinh đô Dĩnh, thiêu hủy khu lăng mộ của các vua Sở ở Di Lăng (nay là Di Lăng, Nghi Xương, Hồ Bắc). Ông sau đó hướng về phía đông tiến đến Cảnh Lăng (nay là Tiềm Giang, Hồ Bắc), Sở Khoảnh Tương vương chống cự không nổi phải thiên đô về đất Trần (nay là Hoài Dương, Hà Nam) để cố thủ. Quân Tần sau cuộc chiến lần này đã chiếm lĩnh khu vực đầm lầy xung quanh hồ Động Đình, một vùng đất rộng lớn kéo dài từ sông Dương Tử ở phía nam cho đến An Lục (nay thuộc địa phận hai huyện Vân Mộng và An Lộc, Hồ Bắc) ở phía bắc. Cũng tại đây, nước Tần đã lập ra Nam Quận, Bạch Khởi cũng được thu phong tước vị Vũ An quân nhờ những chiến công của mình. Năm sau đó, Tần Chiêu Tương Vương lại bổ nhiệm Bạch Khởi làm chủ tướng, quận trưởng Thục quận Trương Nhược làm phó tướng, bình định đất Vu, đất Kiềm của nước Sở, lập ra quận Kiềm Trung. Chỉ nhờ vào sự điều giải của Xuân Thân quân mà Tần vương mới chịu kết minh, đình chiến cùng nước Sở.
Trận Hoa Dương
Năm 276 TCN, Bạch Khởi chỉ huy binh mã tiến đánh nước Nguỵ, đoạt được hai tòa thành trì. Năm 273 TCN, Triệu, Ngụy hai nước liên thủ, tấn công Hoa Dương nước Hàn (phía nam Trịnh Châu, Hà Nam ngày nay). Nước Hàn không còn cách nào khác, đành phải phái Trần Thế sang Tần cầu cứu Ngụy Nhiễm. Ngụy Nhiễm thỉnh cầu Tần Chiêu Tương Vương xuất binh. Bạch Khởi cùng Khách khanh Hồ Dương được lệnh dẫn quân sang cứu Hàn. Quân Tần chủ trương tấn công bất ngờ, trong vòng 8 ngày đột nhiên xuất hiện tại chiến trường Hoa Dương, sau đó lợi dụng sự không chuẩn bị của liên quân Triệu và Ngụy mà bất ngờ tấn công, dành được thắng lợi. Trong trận này, quân Tần bắt được ba tướng lĩnh, chém đầu 13 vạn quân Ngụy, tướng Nguỵ Mang Mão phải bỏ trốn. Về phía quân Triệu, tướng Giả Yển bị đánh bại, bị giết 2 vạn người tháo chạy qua sông. Nước Tần chiếm lĩnh Hoa Dương rồi thừa thắng đánh chiếm Quyển (nay là Nguyên Dương, Hà Nam), Thái (nay là tây nam Thượng Thái, Hà Nam), Trung Dương (nay là đông Trịnh Châu, Hà Nam), Trường Xã (nay là Trường Xã, Hà Nam) của nước Ngụy cùng Quan Tấn (phía tây Quan Thành, Sơn Đông ngày nay) của nước Triệu. Bạch Khởi lại dẫn quân vượt qua Bắc Trạch (phía bắc Trịnh Châu, Hà Nam ngày nay), tiến hành vây hãm thủ đô Đại Lương của Ngụy. Chỉ sau khi quan Đại phu Cần Giả nước Nguỵ du thuyết Ngụy Nhiễm và Ngụy An Ly Vương phái Đoạn Cán Sùng cắt quận Nam Dương, quân Tần mới bãi binh. Nước Tần sau đó đem Quan Tấn trả lại cho nước Triệu, hẹn hai nước cùng nhau tiến đánh nước Tề.
Trận Hình Thành
Người nước Ngụy là Phạm Thư vì bị hãm hại nên trốn đến nước Tần, được Tần Chiêu Tương Vương trọng dụng. Phạm Thư thấy nước Tần nhiều lần đem quân sang đánh Hàn, Ngụy, nhưng thành công thu về được là rất nhỏ, nên đã hiến kế “Xa thân, gần đánh”: dùng ân uy để thân cận với Hàn và Ngụy, dùng sức mạnh để uy hiếp hai nước Sở và Triệu, làm cho nước Tề sợ hãi khiến họ chủ động phụ thuộc nước Tần. Sau khi nước Tề đã phụ thuộc rồi thì chuyển hướng sang Hàn và Ngụy, phát động tấn công, mở rộng lãnh thổ. Tần Chiêu Tương Vương nghe theo đề nghị của Phạm Thư, quyết định tiến đánh hai nước Hàn và Ngụy.
Vào khoảng năm 264 TCN, Tần Chiêu Tương Vương lệnh Bạch Khởi tấn công Hình Thành (đông bắc Khúc Ốc, Sơn Tây ngày nay), Phần Thành (phía bắc Lâm Phần, Sơn Tây ngày nay) của nước Hàn, chém 5 vạn thủ cấp, rồi cho xây dựng công sự phòng ngự xuôi theo sông Phần đến Quảng Vũ (phía tây Đại Huyền, Sơn Tây ngày nay). Năm tiếp đó, Bạch Khởi lại đem quân phong tỏa các con đường ở phía nam núi Thái Hành và phía bắc sông Hoàng Hà.
Đại chiến tại Trường Bình
Năm 262 TCN, nước Tần xuất binh tiến công thành Dã Vương của nước Hàn (nay là Thấm Dương, Hà Nam), thế như chẻ tre. Thành Dã Vương nhanh chóng đầu hàng, cắt đứt con đường nối liền giữa quận Thượng Đảng và kinh đô nước Hàn (nay là Tân Trịnh, Hà Nam), khiến quân Hàn ở Thượng Đảng bị cô lập. Hàn Hoàn Huệ vương rơi vào tình thế khủng hoảng, liền phái Dương Thành quân đi sứ nước Tần, cắt quận Thượng Đảng để cầu hòa. Vì Quận thủ Cận Thẩu của Thượng Đảng không muốn hàng Tần, nên vua Hàn buộc phải phái Phùng Đình đến thay thế Cận Thẩu. Tuy nhiên, bản thân Phùng Đình cũng không muốn hàng Tần, nên đã lập kế hoạch với bách tính huyện Thương Dương và nói:
“Đường tới nước Hàn đã bị cắt đứt, quân đội nước Tần lại đang tiến vào mà nước Hàn không thể ứng cứu. Chi bằng đem Thượng Đảng dâng cho nước Triệu. Nước Triệu nếu tiếp nhận ta, khiến nước Tần tức giận, nhất định sẽ tiến đánh nước Triệu. Mà nếu nước Triệu bị tấn công bằng vũ lực, ắt phải thân cận với nước Hàn. Hàn, Triệu hai nước liên hợp lại, ắt sẽ chặn được Tần.”
Thế rồi ông liền phái sứ giả đến dâng thư hàng cho vua Triệu. Triệu Hiếu Thành vương cùng Bình Dương quân Triệu Báo thương nghị việc này, Bình Dương quân nói
“Thánh nhân coi vô cớ được lợi là tai họa. Còn Tần thì lại cho rằng, đất Thượng Đảng họ muốn lấy thì dễ như trở bàn tay. Phùng Đình không đem Thượng Đảng giao cho nước Tần, là vì muốn giá họa cho nước Triệu. Tiếp nhận nó chỉ mang lại nhiều tai họa hơn là lợi ích”.
Vua Triệu lại triệu kiến Bình Nguyên quân Triệu Thắng cùng Triệu Vũ đến thương nghị, hai người này nói:
“Động viên trăm vạn quân tác chiến, qua năm nọ đến năm kia, còn chưa lấy nổi một tòa thành trì, nay không phí một tên quân, một đấu lương mà được mười bảy thành, đó là mối lợi không gì bằng, đại vương chớ nên bỏ lỡ!”
Triệu Hiếu Thành vương nói:
“Tiếp nhận đất Thượng Đảng, nước Tần nhất định tấn công, ai có thể đứng ra ngăn cản?”
Bình Nguyên quân trả lời:
“Liêm Pha dũng mãnh thiện chiến, yêu mến tướng sĩ, có thể bổ nhiệm.”
Vua Triệu nghe lời, liền thảo chiếu, phong Phùng Đình làm Hoa Dương Quân, phái Bình Nguyên quân đến Thượng Đảng nhận đất, đồng thời hạ lệnh Liêm Pha đóng quân ở Trường Bình (phía tây bắc Cao Bình, Sơn Tây ngày nay).
Năm 261 TCN, nước Tần phái binh công chiếm các thành Câu Thị (nay là Câu Thị, Ngã Sư, Hà Nam), cùng Luân Thị (tây nam Đăng Phong, Hà Nam ngày nay) của nước Hàn. Năm sau, Tần Chiêu Tương Vương lại phái Thứ trưởng Vương Hột đánh chiếm Thượng Đảng. Bách tính thành Thượng Đảng lộn xộn đào vong sang nước Triệu. Quân Triệu ở Trường Bình tiếp ứng cho bách tính Thượng Đảng. Tháng 4 năm đó, Vương Hột mang quân tấn công quân Triệu ở Trường Bình, nghênh chiến Liêm Pha. Hai bên thường xuyên có giao chiến nhỏ lẻ với nhau, binh lính Triệu tấn công quân trinh sát của Tần, quân Tần chém được phó tướng của Triệu là Bì tướng quân, chiến sự ngày càng leo thang. Tháng 6, quân Tần công phá trận địa của Triệu, đánh hạ hai tòa thành, bắt được bốn sĩ quan cấp úy. Liêm Pha sau đó đào hào đắp lũy, cố thủ trong doanh trại, đợi quân Tần hết lương thảo thì ắt phải lui binh. Dù cho quân Tần nhiều lần khiêu chiến, quân Triệu vẫn thủ vững không chịu rời trại giao chiến. Lúc này lương thảo quân Tần đã gần hết, nhưng Triệu Hiếu Thành vương vẫn nhiều lần chỉ trích Liêm Pha không chịu giao chiến. Thừa tướng nước Tần là Phạm Thư mới phái người sang nước Triệu thi hành kế phản gián, tâu lên vua Triệu rằng:
“Liêm Pha già cả, nhút nhát, không dám đụng độ quân Tần. Trong các tướng Triệu thì quân Tần chỉ sợ một mình Triệu Quát, con Mã Phục quân Triệu Xa mà thôi.”
Vua Triệu vốn tức giận vì thấy Liêm Pha cứ cầm cự mãi, liền tin lầm kế phản gián của nước Tần, nên đã hạ chiếu lệnh Triệu Quát đến thay, còn Liêm Pha thì bị tước binh quyền phải quay về Hàm Đan. Triệu Quát ra đến Trường Bình, bãi bỏ hết những sắp xếp nhân sự của Liêm Pha, lại phá bỏ tháo dỡ những công sự mà Liêm Pha xây dựng, có ý muốn chong mặt ra đánh với quân Tần. Quát cầm hơn 40 vạn quân, chủ quan coi thường Vương Hạt, không ngờ Bạch Khởi đã ra cầm quân ngoài mặt trận. Bản thân vua Tần cũng đích thân ra mặt trận khao thưởng tướng sĩ, làm tăng sĩ khí quân Tần.
Bạch Khởi cố ý cho Triệu Quát thắng lợi một trận để coi thường quân Tần, sau đó dụ Triệu Quát ra khỏi ải rồi đặt phục binh đánh tan nát quân Triệu. Sau đó quân Tần lại cắt đường vận lương khiến 40 vạn quân Triệu bị vây khốn, thiếu lương ăn. Quân Triệu bị vây liên tục trong vòng 46 ngày, mặc dù quân số đông hơn quân Tần nhưng không thể phá vây ra được, quân Tần ít hơn nhưng dũng mãnh thiện chiến, quân Triệu mấy phen xông ra đều bị đánh bại. Triệu Quát thấy hết lương, phải liều phá vây ra, bị Bạch Khởi hạ lệnh dùng nỏ cứng bắn vào, Quát tử trận. Phùng Đình nghe tin quân Triệu thua bèn tự sát. Gần như toàn bộ quân Triệu đầu hàng.
Đồ sát hàng binh nước Triệu
Quân Triệu đầu hàng quá đông, Bạch Khởi sợ không kiềm chế được, nên bàn với Vương Hạt chôn sống hết. Để lừa quân Triệu, ông đem hàng tốt chia làm mười doanh, sai mươi viên tướng thống suất, hợp với quân Tần, đều cho trâu rượu, ăn uống và nói rằng ngày mai Võ An quân sẽ lựa chọn quân Triệu, người nào khoẻ mạnh đánh trận được, thì cấp cho khí giới và đem về nước Tần sai dụng, còn người già yếu hay nhát sợ đều cho về Triệu. Quân Triệu mừng rỡ.
Đêm ấy, Bạch Khởi truyền mật lệnh cho mười viên tướng rằng:
Quân Tần đều dùng vải trắng phủ đầu, nếu đầu không có vải trắng, thì tức là quân Triệu, đều phải giết đi.
Quân Tần theo lệnh, cùng ra tay một lúc. Hàng tốt nước Triệu vì không biết có lệnh ấy, lại không có khí giới, nên đều bó tay chịu chết. Bốn mươi vạn quân Triệu trong một đêm đều bị chém chết cả. Bạch Khởi thu nhặt những đầu lâu quân Triệu, chất đống ở trong luỹ Tần, gọi là núi Đầu Lâu.
Tính ra trong trận Trường Bình, trước sau quân Tần hoặc chém hoặc bắt tổng cộng 45 vạn quân Triệu, kể cả những quân Triệu đầu hàng Vương Hạt trước, đều bị giết sạch cả, chỉ còn 240 người ít tuổi được thả về Hàm Đan để tuyên dương cái oai của nước Tần.
Bị lỡ thời cơ
Năm 260 TCN, thừa thắng ở Trường Bình, Bạch Khởi chia quân làm ba hướng, một cánh do Vương Hạt chỉ huy đi về hướng đông, vượt qua dãy núi Thái Hàng tiến đánh Vũ An (nay là vùng Tây Nam, Vũ An, Hà Bắc) áp sát kinh đô Hàm Đan của nước Triệu, một cánh do Tư Mã Ngạnh chỉ huy tiến về phía bắc để bình định quân Thái Nguyên, một cánh do Bạch Khởi đích thân chỉ huy, đóng giữ Thượng Đảng, chờ thời cơ tiến vây kinh thành Hàm Đan, tạo ra thế chiến lược uy hiếp nước Triệu từ hướng Tây sang hướng Đông để tiêu diệt nước Triệu.
Tuy nhiên trong tình thế như vậy, Bạch Khởi lại bị sự ghen tỵ của thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư. Vốn nước Triệu bị kinh động vì tổn thất trong trận Trường Bình, cùng đường nhờ Tô Đại (em Tô Tần) làm thuyết khách sang nước Tần xúi giục Phạm Thư. Nghe lời Tô Đại, Thư sợ công lao của Bạch Khởi quá lớn sẽ lấn át mình, nên lại xui vua Tần Chiêu Tương vương chấp nhận lui quân giảng hòa với điều kiện nước Triệu dâng hiến sáu thành. Triệu Vương tranh thủ dịp này chỉnh đốn lại binh mã, củng cố quốc phòng.
Cái chết
Bạch Khởi nhận lệnh lui quân về nước, tiếc công lao của mình và tướng sĩ phải bỏ dở, hỏi ra mới biết là ý đồ của thừa tướng Phạm Thư. Từ đó giữa ông và Phạm Thư có hiềm khích. Bạch Khởi nói với mọi người rằng:
Từ trận thua ở Trường Bình, trong thành Hàm Đan, một đêm mười lần sợ; nếu thừa thắng tiến đánh, thì không đầy một tháng có thể lấy được. Tiếc thay Ứng hầu không biết thời thế, chủ trương việc rút quân về, làm mất cơ hội ấy!
Vua Tần nghe ý kiến của ông lại hối tiếc, bèn lại dùng ông làm tướng, muốn sai đánh Triệu, nhưng gặp lúc ông có bệnh không đi được, bèn sai đại tướng Vương Lăng đem mười vạn quân đánh Triệu, vây thành Hàm Đan.
Vua Triệu sai Liêm Pha cự địch. Liêm Pha đặt quân phòng ngự rất nghiêm, lại đem gia tài mộ quân quyết tử, thường thường ban đêm cho trèo vào thành, đánh phá dinh Tần. Quân của Vương Lăng bị thua to.
Bấy giờ Vũ An quân Bạch Khởi bệnh đã khỏi, vua Tần muốn sai ra thay Vương Lăng. Vũ An quân tâu rằng:
Thật ra thành Hàm Đan không phải dễ đánh đâu! Trước kia, sau khi đại bại, trăm họ sợ hãi không yên, nếu nhân đó mà đánh, thì họ giữ không được vững, đánh không đủ sức, ta có thể đánh lấy ngay được. Nay đã hơn hai năm rồi, vết thương đã hàn, họ lại được Liêm Pha là tay lão tướng, không như Triệu Quát. Chư hầu thấy Tần đang hoà với Triệu mà lại đánh, thì cho Tần là không thể tin được, tất sẽ hợp tung mà đến cứu. Tôi chắc là Tần không thể được vậy!
Vua Tần ép nài mãi, nhưng Bạch Khởi cố từ. Vua Tần lại sai Phạm Thư đến khuyên bảo, Bạch Khởi căm giận Phạm Thư trước kia ngăn trở sự thành công của mình, bèn xưng bệnh không tiếp. Phạm Thư bèn gièm với vua Tần rằng ông muốn chống lệnh không đi. Vua Tần lại sai Vương Hột thay Vương Lăng đi đánh nhưng suốt mấy tháng cũng không hạ nổi Hàm Đan.
Phạm Thư nhân thể tâu với Tần Chiêu Tương vương, thế nào cũng phải cử Vũ An quân làm tướng. Ông lại lấy cớ bị ốm nặng. Tần Chiêu Tương vương giận dữ, sai thu hết chức tước và phong ấp của ông, giáng xuống làm lính, đày ra Âm Mật, bắt ông phải lập tức ra khỏi thành Hàm Dương. Ông than rằng:
Phạm Lãi có nói: “Con thỏ khôn đã chết, con chó săn tất bị mổ”. Ta vì Tần đánh hạ được hơn bảy mươi thành của chư hầu, cái thế tất phải bị mổ!
Rồi ông đi ra cửa tây Hàm Dương, đến Đỗ Bưu tạm nghỉ để đợi hành lý. Phạm Thư lại nói với vua Tần rằng:
Bạch Khởi ra đi, trong lòng tấm tức không phục, thốt ra nhiều lời oán giận, nói có bệnh, không phải là thật, sợ rằng sẽ đi sang nước khác để làm hại Tần!
Vua Tần bèn sai sứ đưa cho Bạch Khởi một thanh gươm sắc, bắt phải tự tử. Bạch Khởi tự đâm cổ chết. Trước khi chết, ông thở dài nói:
Ta cũng đáng chết thôi. Ở Trường Bình 40 vạn quân Triệu đều đầu hàng, ta lại lừa dối chúng rồi giết hết cả đi. Chúng nó có tội gì mà lại phải bị giết như thế? Bây giờ chính là quả báo của ta chăng?
Bạch Khởi được các sử gia Trung Quốc đánh giá là một trong những tướng lĩnh xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc, luôn đứng đầu trong hàng ngũ các đại danh tướng. Trong khi các tướng lĩnh thời đó luôn khi ra trận luôn đặt nặng binh pháp, điển hình như Triệu Quát, Bạch Khởi lại dùng binh không theo sách. Điển hình như trong trận Trường Bình, quân Tần do ông chỉ huy tuy ít hơn nhưng lại vây ngặt nghèo quân Triệu đông hơn, thậm chí vây không để hở. Những điều trên đều đi ngược lại với những gì Tôn Vũ viết trong binh pháp, thế nhưng Bạch Khởi đã cầm quân thì đã đánh là thắng, không gì ngăn nổi. Điều này cũng khẳng định tài năng quân sự phi thường của Bạch Khởi và xuyên suốt lịch sử Trung Quốc hầu như rất ít tướng lĩnh nào có những tố chất như ông. Tuy nhiên trong các danh tướng đời sau chỉ có một người duy nhất có thể so sánh với Bạch Khởi là Hoài Âm hầu Hàn Tín, đứng đầu trong Hán Sơ tam kiệt, vị danh tướng bách chiến bách thắng đã đánh bại được Hạng Vũ và các chư hầu, một tay đem lại cơ đồ cho nhà Hán. Cả hai vị danh tướng này đều có điểm chung là sau khi công thành danh toại thì đều bị chủ giết hại.
Bạch Khởi xông pha trận mạc suốt 37 năm, hầu như đánh đâu thắng đó, trước sau đánh phá 4 nước chư hầu, chém đầu gần 100 vạn quân địch (thực tế phải hơn con số này chưa tính cả dân thường bị liên lụy, có thuyết cho rằng Bạch Khởi đã giết hơn 200 vạn người), hạ hơn 73 thành, mở rộng hơn trăm dặm đất đai cho nước Tần, làm suy yếu hoàn toàn Tam Tấn và khiến nước Sở từ chỗ ngang hàng với Tần bị đặt vào thế yếu hơn, luôn phải ở tư thế phòng ngự. Chiến công của Bạch Khởi đã tiêu hao lực lượng chiến đấu của các nước mạnh nhất thời đó như Triệu và Sở, đưa nước Tần trở thành nước bá chủ thời Chiến Quốc, khởi đầu cho việc thôn tính hoàn toàn 6 nước chư hầu của nước Tần, đi đến thống nhất Trung Hoa.
Bạch Khởi tuy vô địch trên chiến trường nhưng quá bộc trực thẳng tính, đã xúc phạm đến Tần Chiêu Tương Vương, người lúc này đã già có tính khí thất thường và mất đi sự kiên nhẫn, chỉ muốn nhanh chóng thành đại nghiệp. Một khuyết điểm nữa là Bạch Khởi quá hiếu sát, trong các chiến dịch do ông chỉ huy hầu như quân địch không có người sống sót trở về, thậm chí là một ngày giết mấy mươi vạn người như trong trận Y Khuyết, trận Yên-Dĩnh, trận Trường Bình. Cuối cùng ông bị gièm pha, vua Tần muốn ông chết, có thể coi là báo ứng. Tương truyền về sau vào khoảng cuối đời nhà Đường, sấm sét đánh chết một con trâu, dưới bụng trâu có hai chữ “Bạch Khởi”. Người ta nói Bạch Khởi vì giết người nhiều quá, nên mấy trăm năm sau vẫn còn phải chịu cái quả báo làm kiếp trâu bị sét đánh.
Nguồn: Biên dịch từ Wikipedia tiếng Trung