Ngày 26 tháng 7 năm 1944, Trung úy A. E. Wall của Lực lượng Không quân Hoàng gia đang bay trên chiếc De Havilland Mosquito của mình qua Munich trong một nhiệm vụ trinh sát tầm cao. Mosquito (Con Muỗi), một trong những máy bay nhanh nhất được sử dụng vào thời điểm đó, không có vũ khí và bay ở độ cao gần 30.000 feet. Wall và hoa tiêu của anh ta, sĩ quan Phi công A. S. Lobban không quá lo lắng về việc bị đánh chặn. Vào thời điểm đó trong các cuộc chiến, Không quân Đức đã không thể kháng cự và loại máy bay Mosquito này có vận tốc lên tới 668 km/h, nhanh hơn bất kỳ máy bay nào của Đức trước khi nó có thể lọt vào tầm bắn.
Nhưng không lâu sau, Lobban nhận thấy một máy bay địch đang lao tới. Wall điều khiển động cơ của mình và rẽ xuống để chạy đi, đạt tốc độ hơn 400 dặm/giờ.
Trước sự ngạc nhiên của họ, nó không đủ nhanh.
Một cuộc rượt đuổi quyết liệt kéo dài 15 phút sau đó. Không có vũ khí, Muỗi phải dựa vào sự nhanh nhẹn của mình để chạy trốn khỏi chiếc máy bay không xác định. Sau nhiều lần bị áp sát, Wall đã trốn thoát bằng cách trốn vào một đám mây. Máy bay của anh ta bị hư hại và buộc phải hạ cánh khẩn cấp xuống đất Ý do Đồng minh kiểm soát.
Wall và Lobban vừa chạm trán với vũ khí mới nhất của Không quân Đức: Messerschmitt Me 262 – chiến đấu cơ phản lực đầu tiên trong lịch sử mang số hiệu 262 A-1a W.Nr. 130 017 do trung úy Alfred Schreiber (11 tháng 11 năm 1923 – 26 tháng 11 năm 1944) điều khiển.
PHÁT TRIỂN
Việc phát triển máy bay phản lực ban đầu là một ưu tiên của Đức Quốc xã. Họ đã chế tạo và bay chiếc máy bay phản lực đầu tiên trên thế giới, Heinkel He 178, vào ngày 27 tháng 8 năm 1939 – chỉ năm ngày trước khi bắt đầu chiến tranh.
Sự phát triển của Me 262, được gọi là “Projekt 1065” cũng bắt đầu trước chiến tranh. Quá trình phát triển máy bay chiến đấu bị chậm do các vấn đề kỹ thuật và chính trị, và thiết kế ban đầu đã được thay đổi nhiều lần. Cả Junkers và BMW đều chế tạo động cơ cho máy bay chiến đấu, với Junkers Jumo 004 cuối cùng đã được chọn. Nhưng các động cơ tỏ ra cực kỳ khó thiết kế và việc giao hàng của chúng bị trì hoãn. Ngoài ra còn có sự thiếu hụt vật liệu chịu nhiệt, làm giảm đáng kể thời gian bay của máy bay phản lực, vì chúng tạo ra một lượng nhiệt lớn. Do đó, một số thay đổi thiết kế đã được thực hiện. Các động cơ phải được lắp dưới cánh thay vì bên trong như kế hoạch ban đầu, và bản thân cánh phải được thiết kế lại vì động cơ nặng hơn dự kiến, điều này làm thay đổi trọng tâm của máy bay. Đến ngày 18 tháng 7 năm 1942, chiếc Me 262 (hiện đang ở phiên bản thứ ba) bay lần đầu tiên nhưng việc sản xuất hàng loạt mãi đến năm 1944 mới bắt đầu.
Bởi vì Hitler nhấn mạnh rằng Me 262 phải được sử dụng làm máy bay ném bom nên phần lớn các máy bay phản lực được giao cho lực lượng ném bom của Không quân Đức nhưng Me 262 lại tỏ ra hiệu quả nhất với vai trò máy bay chiến đấu.
Hai tuần sau khi ra mắt vào tháng 7 năm 1944 , Me 262 đã lần tiêu diệt máy bay đối phương. Đến cuối tháng, các phi công Đức tuyên bố rằng những chiếc Me 262 đã bắn rơi 19 máy bay Đồng minh trong khi chỉ mất sáu máy bay phản lực.
Tốc độ tối đa lên tới 540 dặm/h và bốn khẩu pháo 30 mm MK-108, mỗi khẩu có khả năng bắn tới 650 viên một phút, xé nát bất cứ thứ gì chúng bắn vào. Máy bay cũng có thể mang 24 tên lửa không đối không R4M, được chứng minh là có sức công phá lớn khi bắn liên tục vào đội hình dày đặc của các phi đội máy bay ném bom khổng lồ của Đồng minh. Trong một cuộc giao tranh, 37 chiếc Me 262 đã giao chiến với hơn 1.200 máy bay ném bom và máy bay chiến đấu của Mỹ trong cuộc không kích lớn nhất vào Berlin. Họ đã bắn hạ ước tính khoảng 16 máy bay ném bom và một máy bay chiến đấu với tổn thất chỉ 3 máy bay phản lực.
QUÁ ÍT, QUÁ TRỄ
Bất chấp những thiệt hại gây ra cho máy bay Đồng minh, số lượng Me 262 là quá nhỏ, và xuất hiện quá trễ. Đến năm 1944, sức mạnh không quân của Đồng minh đông hơn hẳn Không quân Đức, khiến cho các chiến thắng của Me 262 về mặt thống kê là không đáng kể.
Vì chúng là những cỗ máy phức tạp nên chúng đòi hỏi rất nhiều thời gian và nguồn lực – hai thứ mà Đức Quốc xã có rất ít trong hai năm cuối của cuộc chiến. Trong số 1.400 chiếc Me 262 được chế tạo, có ít hơn 300 chiếc đã kịp hoàn thiện để tham gia chiến đấu.
Đồng minh cũng thích ứng với Me 262; họ nhắm mục tiêu cụ thể vào các căn cứ của máy bay phản lực và phá hủy các nhà máy sản xuất chúng, làm giảm số lượng và khả năng thay động cơ của quân Đức. Họ cũng nhắm vào các cơ sở lưu trữ dầu.
Việc mất căn cứ và nhà máy, kết hợp với tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nhiên liệu và phi công khi chiến tranh diễn ra, có nghĩa là những chiếc Me 262, vốn đã có số lượng nhỏ, không thể chiến thắng trong cuộc chiến tiêu hao mà Đức đang tham chiến.
Nhưng Me 262 đã có một tác động sâu sắc đến lịch sử hàng không, chứng minh rằng máy bay phản lực là tương lai của không chiến và ảnh hưởng trực tiếp đến thiết kế của F-86 Sabre và MiG-15 – những biểu tượng của thời đại máy bay phản lực.